Ads[770x70]
  • CAM KẾT HÀNG CHÍNH HÃNG Liên hệ đặt hàng: 0942.239.778 CAM KẾT HÀNG CHÍNH HÃNG Hotline: 0942.239.778
    Featured

  • Khách hàng cảm ơn Alpha lipid Life

  • click

    Thông Tin về Alpha Lipid Life Line

  • Hiển thị các bài đăng có nhãn Sua non. Hiển thị tất cả bài đăng
    Hiển thị các bài đăng có nhãn Sua non. Hiển thị tất cả bài đăng

    Chủ Nhật, 15 tháng 2, 2015


     Colostrum New Zealand nổi tiếng là sữa non chất lượng cao nhất thế giới. 

     Ở New Zealand bộ Nông nghiệp và lâm nghiệp đã đưa ra các tiêu chuẩn nghiêm ngặt nhằm quản lý ngành công nghiệp chế biến sữa.

     Sữa non New Zealand được lựa chọn từ những con bò chỉ ăn cỏ mà không ăn thức ăn gia súc. 

     Việc sử dụng kháng sinh và hormones cho bò sữa ở New Zealandlà bị cấm. Việc vi phạm điều này có thể bị phạt lên tới 100 000$.


     Ở New Zealand sữa non được bảo quản trong những thùng lạnh sau khi được vắt và được diệt khuẩn ở nhiệt độ 72°C trong vòng 15s. 

     Ở các quốc gia khác họ làm lạnh Colostrum sau đó diệt khuẩn ở nhiệt độ cao làm mất đi các phân tử protein và các thành phần hoạt tính có sẵn trong sữa non

     Phương pháp khử trùng mới mẻ này đã giúp bảo vệ các thành phần quý giá trong sữa non.

     Phòng thí nghiệm đã thử nghiệm và cho thấy không có sự hiện diện của kim loại nặng, thuốc trừ sâu, mầm bệnh và nguồn bệnh cũng như khuẩn Salmonella và E. coli.


     Sản xuất tại New Zealand theo tiêu chuẩn quốc tế. Tan trong nước, được xử lý ở nhiệt độ thấp. 

     Không chứa ngũ cốc, gluten, đường, tinh bột, bột mỳ, men, mầu nhân tạo, hương tổng hợp và chất bảo quản.


    Sữa Non Từ New Zealand Là Tốt Nhất.

    Posted at  14:20  |  in  Sua non  |  Read More»


     Colostrum New Zealand nổi tiếng là sữa non chất lượng cao nhất thế giới. 

     Ở New Zealand bộ Nông nghiệp và lâm nghiệp đã đưa ra các tiêu chuẩn nghiêm ngặt nhằm quản lý ngành công nghiệp chế biến sữa.

     Sữa non New Zealand được lựa chọn từ những con bò chỉ ăn cỏ mà không ăn thức ăn gia súc. 

     Việc sử dụng kháng sinh và hormones cho bò sữa ở New Zealandlà bị cấm. Việc vi phạm điều này có thể bị phạt lên tới 100 000$.


     Ở New Zealand sữa non được bảo quản trong những thùng lạnh sau khi được vắt và được diệt khuẩn ở nhiệt độ 72°C trong vòng 15s. 

     Ở các quốc gia khác họ làm lạnh Colostrum sau đó diệt khuẩn ở nhiệt độ cao làm mất đi các phân tử protein và các thành phần hoạt tính có sẵn trong sữa non

     Phương pháp khử trùng mới mẻ này đã giúp bảo vệ các thành phần quý giá trong sữa non.

     Phòng thí nghiệm đã thử nghiệm và cho thấy không có sự hiện diện của kim loại nặng, thuốc trừ sâu, mầm bệnh và nguồn bệnh cũng như khuẩn Salmonella và E. coli.


     Sản xuất tại New Zealand theo tiêu chuẩn quốc tế. Tan trong nước, được xử lý ở nhiệt độ thấp. 

     Không chứa ngũ cốc, gluten, đường, tinh bột, bột mỳ, men, mầu nhân tạo, hương tổng hợp và chất bảo quản.


    Thứ Bảy, 14 tháng 2, 2015







    Sữa non là một chất dịch lỏng, màu vàng, dính. Nó được tiết ra trong 3 - 5 ngày đầu sau khi sinh. Lượng sữa non tiết ra thay đổi tùy theo từng người, thông thường từ khoảng 10 - 100ml/ngày và trung bình là 30ml/ngày. Sự tiết sữa này tăng lên dần dần và đạt tới thành phần của sữa bình thường sau vài ngày.


    Sữa non chứa ít lactose, chất béo (có 2g/100ml) và các vitamin tan trong nước hơn sữa bình thường (sữa trưởng thành) nhưng nhiều protein và các vitamin tan trong chất béo hơn bao gồm vitamin A (cao gấp 2 lần sữa trưởng thành), vitamin E và vitamin K.

    Ngoài ra, nó còn có thêm một số chất khoáng như sắt, kẽm… Sắt và kẽm, những dưỡng chất vi lượng thiết yếu quan trọng đối với trẻ sơ sinh, có nồng độ cao trong sữa non.

    Trong sữa non còn tập trung cao các tế bào miễn dịch, trong đó có thành phần hòa tan bao gồm immunoglobulin (IgA-IgM-IgG) lysozyme và các enzym khác, lactoferin và cả các thành phần tế bào bao gồm tế bào lympho, bạch cầu hạt trung tính và các tế bào biểu mô; những tế bào này có thể thực bào và tiêu diệt vi khuẩn nhưng chúng cũng có thể điều biến hệ miễn dịch của trẻ sơ sinh bằng cách sản xuất các cytokin, những chất trung gian miễn dịch hòa tan, chúng có thể kích thích các tế bào miễn dịch ở trẻ sơ sinh ví dụ TGF-beta có thể giảm viêm ở ruột, giảm dị ứng và kích thích sự sản xuất IgA ở ruột.





    Nhiều nghiên cứu cho thấy, miễn dịch của người mẹ được truyền sang trẻ sơ sinh qua một cơ chế được gọi là chuyển dời ruột - vú. Với cơ chế này, các kháng thể chống tác nhân gây bệnh mà người đã phơi nhiễm được chuyển vào sữa mẹ, cung cấp sự bảo vệ chống nhiễm khuẩn cho em bé.

    Sữa non còn chứa rất nhiều ganglioside, một nhóm glycosphingolipid quan trọng đối với sự phát triển não, chúng không những cung cấp vật liệu xây dựng cho sự phát triển sớm của não mà còn hoạt động như các thụ thể đích để vi khuẩn dính vào và ảnh hưởng đến hệ miễn dịch ruột.

    Sữa non đáp ứng đầy đủ các nhu cầu đặc trưng của trẻ mới sinh như thận của trẻ còn non nớt, không thể xử lý một lượng lớn các chất lỏng mà không gây ra các stress về trao đổi chất, sự sản xuất lactaza và các enzym khác ở ruột chỉ vừa mới bắt đầu, các chất chống ôxy hóa đều cần thiết cho việc bảo vệ chống lại sự phá hoại của các chất ôxy hóa và bệnh xuất huyết. 



    Các immmoglobulin bao bọc lớp nền thành ruột còn non nớt, ngăn chặn sự thâm nhập của vi khuẩn, virut, vật ký sinh và các vi khuẩn gây bệnh khác, đồng thời các yếu tố phát triển kích thích các hệ thống của bản thân đứa trẻ.

    Chính vì những lợi ích to lớn như vậy, cần cho trẻ bú sớm sau sinh. Nếu mẹ sinh thường, có thể cho con bú ngay trong vòng 30 phút đến một giờ sau sinh. Mẹ sinh mổ, thời gian bắt đầu khoảng 6 giờ sau mổ sinh, vì mẹ phải hồi phục sau tác dụng của thuốc gây tê. Thường sau 6 giờ, nếu hậu phẫu ổn, người mẹ được chuyển phòng để nằm cạnh con và tập cho con bú. Con cần nằm cùng giường với mẹ. Sự tiếp xúc mẹ con có tác động tinh thần giúp người mẹ mau xuống sữa.



    Theo BS Hồng Nhung (Báo Sức khỏe đời sống)
    LIÊN HỆ NGAY: 0942.239.778 để được tư vấn miễn phí về Sữa Non...

    TÁC DỤNG TUYỆT VỜI CỦA SỮA NON

    Posted at  14:48  |  in  Sua non  |  Read More»







    Sữa non là một chất dịch lỏng, màu vàng, dính. Nó được tiết ra trong 3 - 5 ngày đầu sau khi sinh. Lượng sữa non tiết ra thay đổi tùy theo từng người, thông thường từ khoảng 10 - 100ml/ngày và trung bình là 30ml/ngày. Sự tiết sữa này tăng lên dần dần và đạt tới thành phần của sữa bình thường sau vài ngày.


    Sữa non chứa ít lactose, chất béo (có 2g/100ml) và các vitamin tan trong nước hơn sữa bình thường (sữa trưởng thành) nhưng nhiều protein và các vitamin tan trong chất béo hơn bao gồm vitamin A (cao gấp 2 lần sữa trưởng thành), vitamin E và vitamin K.

    Ngoài ra, nó còn có thêm một số chất khoáng như sắt, kẽm… Sắt và kẽm, những dưỡng chất vi lượng thiết yếu quan trọng đối với trẻ sơ sinh, có nồng độ cao trong sữa non.

    Trong sữa non còn tập trung cao các tế bào miễn dịch, trong đó có thành phần hòa tan bao gồm immunoglobulin (IgA-IgM-IgG) lysozyme và các enzym khác, lactoferin và cả các thành phần tế bào bao gồm tế bào lympho, bạch cầu hạt trung tính và các tế bào biểu mô; những tế bào này có thể thực bào và tiêu diệt vi khuẩn nhưng chúng cũng có thể điều biến hệ miễn dịch của trẻ sơ sinh bằng cách sản xuất các cytokin, những chất trung gian miễn dịch hòa tan, chúng có thể kích thích các tế bào miễn dịch ở trẻ sơ sinh ví dụ TGF-beta có thể giảm viêm ở ruột, giảm dị ứng và kích thích sự sản xuất IgA ở ruột.





    Nhiều nghiên cứu cho thấy, miễn dịch của người mẹ được truyền sang trẻ sơ sinh qua một cơ chế được gọi là chuyển dời ruột - vú. Với cơ chế này, các kháng thể chống tác nhân gây bệnh mà người đã phơi nhiễm được chuyển vào sữa mẹ, cung cấp sự bảo vệ chống nhiễm khuẩn cho em bé.

    Sữa non còn chứa rất nhiều ganglioside, một nhóm glycosphingolipid quan trọng đối với sự phát triển não, chúng không những cung cấp vật liệu xây dựng cho sự phát triển sớm của não mà còn hoạt động như các thụ thể đích để vi khuẩn dính vào và ảnh hưởng đến hệ miễn dịch ruột.

    Sữa non đáp ứng đầy đủ các nhu cầu đặc trưng của trẻ mới sinh như thận của trẻ còn non nớt, không thể xử lý một lượng lớn các chất lỏng mà không gây ra các stress về trao đổi chất, sự sản xuất lactaza và các enzym khác ở ruột chỉ vừa mới bắt đầu, các chất chống ôxy hóa đều cần thiết cho việc bảo vệ chống lại sự phá hoại của các chất ôxy hóa và bệnh xuất huyết. 



    Các immmoglobulin bao bọc lớp nền thành ruột còn non nớt, ngăn chặn sự thâm nhập của vi khuẩn, virut, vật ký sinh và các vi khuẩn gây bệnh khác, đồng thời các yếu tố phát triển kích thích các hệ thống của bản thân đứa trẻ.

    Chính vì những lợi ích to lớn như vậy, cần cho trẻ bú sớm sau sinh. Nếu mẹ sinh thường, có thể cho con bú ngay trong vòng 30 phút đến một giờ sau sinh. Mẹ sinh mổ, thời gian bắt đầu khoảng 6 giờ sau mổ sinh, vì mẹ phải hồi phục sau tác dụng của thuốc gây tê. Thường sau 6 giờ, nếu hậu phẫu ổn, người mẹ được chuyển phòng để nằm cạnh con và tập cho con bú. Con cần nằm cùng giường với mẹ. Sự tiếp xúc mẹ con có tác động tinh thần giúp người mẹ mau xuống sữa.



    Theo BS Hồng Nhung (Báo Sức khỏe đời sống)
    LIÊN HỆ NGAY: 0942.239.778 để được tư vấn miễn phí về Sữa Non...

    Thứ Năm, 22 tháng 1, 2015

    Một thành tựu nổi bật trong những năm gần đây của nhà khoa học dinh dưỡng đó là đã phát hiện ra những chất kháng thể vô cùng cần thiết cho cơ thể (nhất là em bé lúc mới sinh) có trong sữa non.
     Sữa non (colostrums) là sữa của mẹ được tiết ra trong 72 tiếng đầu tiên sau khi sinh. (sau 72 tiếng sữa non sẽ mất đi). Ngoài truyền cho bé những chất sinh trưởng, sữa non còn cung cấp một lượng lớn các kháng thể tự nhiên. Đặc biệt các kháng thể : IgG (ImmunoglobulinG), IgA, IGg,..làm tăng cường hệ miễn dịch của trẻ, cũng như bảo vệ hệ tiêu hóa và phá hủy các tác nhân gây bệnh. Giúp trẻ tăng cường thể lực phát triển khỏe mạnh.
     Các nhà khoa học dinh dưỡng chỉ ra rằng sữa non của con bò cũng có những chất kháng thể quý giá như vậy. Mà đặc biệt hơn sữa non của bò còn có tính kháng thể rất cao.
     VD: Trong sữa non (colostrums) của mẹ chỉ có 2% IgG – một loại kháng thể có trong cơ thể. Nhưng trong sữ non của bò có đến 86% IgG, gấp 43 lần sữa mẹ. Ngoài ra sữa non còn có glycoprotein đặc biệt và cực kỳ hiệu quả để bảo vệ các nhân tố kháng thể và tăng trưởng khỏi sự phá hủy của các ezyme tiêu hóa. Đồng thời Colostrums còn chứa khoảng 6 nhân tố tăng trưởng và 20 nhân tố kháng thể khác.
     Một thành tựu thứ 2 của các nhà khoa học là việc nghiên cứu hệ vi sinh đường ruột (probiotics) mà tất cả chúng ta từ trẻ sơ sinh đến người lớn tuổi đều có. Đó là những vi khuẩn: lacto-bacillus acidophilus, bacillus subtilis, streptococcus fae-calis, .. Hệ vi khuẩn Probiotics được đưa vào cơ thể từ các thức ăn như sữa chua hay các thực phẩm lên men. Probiotics rất cần thiết cho cơ thể để giúp cân bằng hệ vi sinh đường ruột, tăng cường hệ miễn dịch ở hệ tiêu hóa, giúp tiêu hóa và hấp thu thức ăn tốt hơn. Ngoài ra còn giúp ngăn ngừa viêm da, dị ứng,..

     Từ những kết quả trên, các nhà khoa học New Zealand đã đưa ra dòng sản phẩm Sữa Non được tinh chế từ sữa non bò.
     Sản phẩm sữa non đến từ tập đoàn NEW IMAGE là những sản phẩm cao cấp từ New Zealand bổ sung những kháng thể để hoàn thiện hệ miễn dịch cho trẻ, cho trẻ phát triển trí thông minh và chiều cao vượt trội, được dùng phổ biến tại Mỹ, Austrlia, New Zealand và các nước Tây Âu khác. Sản phẩm sữa non trên đã mang lại hiệu quả cho trẻ em và những người sử dụng. Không những vậy, sản phẩm sữa non đã mở ra trang mới cho ngành khoa học dinh dưỡng.
     Những điểm đặc biệt và hơn hẳn của dòng sản phẩm sữa non:
    - Điểm đặc biệt thứ nhất:Sữa non chứa lượng kháng thể rất cao  (nhất là trẻ mới sinh và thiếu tháng) giúp chống chọi lại với mọi ảnh hưởng xấu, bệnh tật từ môi trường ngoài vào cơ thể.
    - Điểm đặc biệt thứ 2 đó là: Dòng sản phẩm sữa non được bổ xung hệ vi khuẩn probiotics giúp cân bằng hệ vi sinh trong cơ thể, tăng cường miễn dịch cho hệ tiêu hóa, phòng và hỗ trợ điều trị các bệnh táo bón, tiêu chảy phân sống, rối loạn tiêu hóa. Giúp trẻ tiêu hóa và hấp thụ tiêu hóa thức ăn tốt hơn.
    - Điểm đặc biệt thứ 3 đó là: Dòng sản phẩm sữa non được bổ xung Acid amin: L-lysin, taurin để thúc đẩy quá trình chao đổi chất của cơ thể làm cho trẻ ăn được nhiều hơn, hấp thu thức ăn tốt hơn, khắc phục được tính biếng ăn của trẻ.
    - Điểm đặc biệt thứ 4 đó là: Dòng sản phẩm sữa non được bổ sung hàng lượng cao DHA và như vậy mới thực sự làm cho bé thông minh.
     Chúng ta biết rằng cơ thể hấp thu tốt nhất canxi khi tỉ lệ canxi và magiê cân đối. Do đó dòng sản phẩm sữa non được bổ xung hàm lượng cao canxi, magiê và photpho với hàm lượng tối ưu giúp trẻ có chiều cao vượt trội.
    - Ngoài ra, các dòng sản phẩm sữa non còn được bổ xung đầy đủ các loại Vitamin, 21 loại Acid amin tự nhiên và các nguyên tố vi lượng như Cu, Fe, Zn, cùng acid folic(B9) giúp cơ thể phát triển hoàn hảo.
     Với những dưỡng chất quý hiếm trên dòng sản phẩm Sữa non vô cùng cần thiết với trẻ sinh thiếu tháng mà lúc sinh ra không còn được bú sữa non của mẹ, trẻ mà lúc sinh ra mẹ bị mất sữa, chậm có sữa hoặc chất lượng sữa không cao. Ba sản phẩm trên còn cần thiết cho những bé không được khỏe mạnh (hay bệnh) những bé còi xương, suy dinh dưỡng, tiêu hóa kém biếng ăn.

    Công dụng tuyệt vời từ sữa non !

    Posted at  16:01  |  in  Sua non  |  Read More»

    Một thành tựu nổi bật trong những năm gần đây của nhà khoa học dinh dưỡng đó là đã phát hiện ra những chất kháng thể vô cùng cần thiết cho cơ thể (nhất là em bé lúc mới sinh) có trong sữa non.
     Sữa non (colostrums) là sữa của mẹ được tiết ra trong 72 tiếng đầu tiên sau khi sinh. (sau 72 tiếng sữa non sẽ mất đi). Ngoài truyền cho bé những chất sinh trưởng, sữa non còn cung cấp một lượng lớn các kháng thể tự nhiên. Đặc biệt các kháng thể : IgG (ImmunoglobulinG), IgA, IGg,..làm tăng cường hệ miễn dịch của trẻ, cũng như bảo vệ hệ tiêu hóa và phá hủy các tác nhân gây bệnh. Giúp trẻ tăng cường thể lực phát triển khỏe mạnh.
     Các nhà khoa học dinh dưỡng chỉ ra rằng sữa non của con bò cũng có những chất kháng thể quý giá như vậy. Mà đặc biệt hơn sữa non của bò còn có tính kháng thể rất cao.
     VD: Trong sữa non (colostrums) của mẹ chỉ có 2% IgG – một loại kháng thể có trong cơ thể. Nhưng trong sữ non của bò có đến 86% IgG, gấp 43 lần sữa mẹ. Ngoài ra sữa non còn có glycoprotein đặc biệt và cực kỳ hiệu quả để bảo vệ các nhân tố kháng thể và tăng trưởng khỏi sự phá hủy của các ezyme tiêu hóa. Đồng thời Colostrums còn chứa khoảng 6 nhân tố tăng trưởng và 20 nhân tố kháng thể khác.
     Một thành tựu thứ 2 của các nhà khoa học là việc nghiên cứu hệ vi sinh đường ruột (probiotics) mà tất cả chúng ta từ trẻ sơ sinh đến người lớn tuổi đều có. Đó là những vi khuẩn: lacto-bacillus acidophilus, bacillus subtilis, streptococcus fae-calis, .. Hệ vi khuẩn Probiotics được đưa vào cơ thể từ các thức ăn như sữa chua hay các thực phẩm lên men. Probiotics rất cần thiết cho cơ thể để giúp cân bằng hệ vi sinh đường ruột, tăng cường hệ miễn dịch ở hệ tiêu hóa, giúp tiêu hóa và hấp thu thức ăn tốt hơn. Ngoài ra còn giúp ngăn ngừa viêm da, dị ứng,..

     Từ những kết quả trên, các nhà khoa học New Zealand đã đưa ra dòng sản phẩm Sữa Non được tinh chế từ sữa non bò.
     Sản phẩm sữa non đến từ tập đoàn NEW IMAGE là những sản phẩm cao cấp từ New Zealand bổ sung những kháng thể để hoàn thiện hệ miễn dịch cho trẻ, cho trẻ phát triển trí thông minh và chiều cao vượt trội, được dùng phổ biến tại Mỹ, Austrlia, New Zealand và các nước Tây Âu khác. Sản phẩm sữa non trên đã mang lại hiệu quả cho trẻ em và những người sử dụng. Không những vậy, sản phẩm sữa non đã mở ra trang mới cho ngành khoa học dinh dưỡng.
     Những điểm đặc biệt và hơn hẳn của dòng sản phẩm sữa non:
    - Điểm đặc biệt thứ nhất:Sữa non chứa lượng kháng thể rất cao  (nhất là trẻ mới sinh và thiếu tháng) giúp chống chọi lại với mọi ảnh hưởng xấu, bệnh tật từ môi trường ngoài vào cơ thể.
    - Điểm đặc biệt thứ 2 đó là: Dòng sản phẩm sữa non được bổ xung hệ vi khuẩn probiotics giúp cân bằng hệ vi sinh trong cơ thể, tăng cường miễn dịch cho hệ tiêu hóa, phòng và hỗ trợ điều trị các bệnh táo bón, tiêu chảy phân sống, rối loạn tiêu hóa. Giúp trẻ tiêu hóa và hấp thụ tiêu hóa thức ăn tốt hơn.
    - Điểm đặc biệt thứ 3 đó là: Dòng sản phẩm sữa non được bổ xung Acid amin: L-lysin, taurin để thúc đẩy quá trình chao đổi chất của cơ thể làm cho trẻ ăn được nhiều hơn, hấp thu thức ăn tốt hơn, khắc phục được tính biếng ăn của trẻ.
    - Điểm đặc biệt thứ 4 đó là: Dòng sản phẩm sữa non được bổ sung hàng lượng cao DHA và như vậy mới thực sự làm cho bé thông minh.
     Chúng ta biết rằng cơ thể hấp thu tốt nhất canxi khi tỉ lệ canxi và magiê cân đối. Do đó dòng sản phẩm sữa non được bổ xung hàm lượng cao canxi, magiê và photpho với hàm lượng tối ưu giúp trẻ có chiều cao vượt trội.
    - Ngoài ra, các dòng sản phẩm sữa non còn được bổ xung đầy đủ các loại Vitamin, 21 loại Acid amin tự nhiên và các nguyên tố vi lượng như Cu, Fe, Zn, cùng acid folic(B9) giúp cơ thể phát triển hoàn hảo.
     Với những dưỡng chất quý hiếm trên dòng sản phẩm Sữa non vô cùng cần thiết với trẻ sinh thiếu tháng mà lúc sinh ra không còn được bú sữa non của mẹ, trẻ mà lúc sinh ra mẹ bị mất sữa, chậm có sữa hoặc chất lượng sữa không cao. Ba sản phẩm trên còn cần thiết cho những bé không được khỏe mạnh (hay bệnh) những bé còi xương, suy dinh dưỡng, tiêu hóa kém biếng ăn.

    Thứ Tư, 14 tháng 1, 2015

    SỮA NON THỰC PHẨM HỖ TRỢ ĐIỀU TRỊ BỆNH THẦN KỲ


    Theo nhiều nghiên cứu cho thấy, sữa non là loại thực phẩm hỗ trợ điều trị bệnh tật một cách thần kỳ. Trong thực tế, sữa non có thể giúp tất cả chúng ta phòng ngừa bệnh tật và nó là sự lựa chọn hoàn hảo để giúp cơ thể luôn được cung cấp đầy đủ dưỡng chất thiết yếu.







    Sữa non có rất nhiều thành phần có lợi cho sức khỏe con người, đặc biệt là các kháng thể tự nhiên có trong nó. Tuy nhiên con người chỉ có thể tiết ra một lượng nhỏ sữa non, thì trung bình một con bò có thể sản xuất 30 lít sữa non trong suốt 36 giờ đầu tiên sau khi sinh. Ngoài việc chứa nhiều chất dinh dưỡng, nhiều nghiên cứu y khoa của thế giới cho thấy sữa non của bò còn là thực phẩm hỗ trợ điều trị bệnh thần kỳ đối với cơ thể người già, người bệnh.

    Khi một người đã có tuổi, khả năng chịu lạnh, năng lượng, khả năng nhạy bén cũng giảm, da kém đàn hồi và bị lão hóa, đặc biệt là sự suy giảm hệ miễn dịch. Không có một giải pháp, một loại thực phẩm nào có thể giúp bạn giải quyết những vấn đề trên một cách hoàn hảo. Trong trường hợp này, sữa non là một giải pháp tốt nhất cho bạn.

    Qua hàng trăm báo cáo nghiên cứu khoa học thế giới cho thấy, cơ thể con người có thể thay đổi bởi sữa non của bò, nó cung cấp các thành phần thiết yếu cho cơ thể, các vitamin, axit amin, khoáng chất và đặc biệt là bổ sung hệ miễn dịch tự nhiên cho cơ thể, giúp chống lại những yếu tố có hại từ môi trường. Vì vậy có thể nói sữa non là thực phẩm thần kỳ trong hỗ trợ điều trị bệnh tật.

    Trong quá trình sống, cơ thể con người phải chống chọi với rất nhiều yếu tố có hại từ môi trường bên ngoài tấn công vào. Không những thế, theo nhiều nghiên cứu cho thấy, khi bước qua tuổi dậy thì cơ thể con người sẽ sản xuất ít dần các yếu tố miễn dịch, cùng với quá trình lão hóa, con người sẽ già đi và chết. Với việc bổ sung các thành phần dinh dưỡng thiết yếu cho sự sống, các yếu tố miễn dịch và tăng trưởng, sữa non là thực phẩm hỗ trợ điều trị bệnh thần kỳ không chỉ đối với người già, nó cần thiết cho tất cả chúng ta.




    Không giống như các chất bổ sung khác có những tác dụng phụ nguy hiểm, sữa non luôn luôn là một sự lựa chọn hoàn hảo từ thiên nhiên. Sữa non còn có khả năng diệt vi khuẩn và virus xâm hại, kích thích tái tạo mô (đặc biệt là niêm mạc ruột), tối ưu hóa tái tạo tế bào (chống lão hóa). Với những tác dụng tuyệt vời như vậy, có thể nói sữa non là thực phẩm thần kỳ trong hỗ trợ điều trị bệnh tật.

    LIÊN HỆ NGAY: 0942.239.778  để được tư vấn miễn phí về Sữa Non...

    SỮA NON THỰC PHẨM HỖ TRỢ ĐIỀU TRỊ BỆNH THẦN KỲ

    Posted at  14:46  |  in  Sua non  |  Read More»

    SỮA NON THỰC PHẨM HỖ TRỢ ĐIỀU TRỊ BỆNH THẦN KỲ


    Theo nhiều nghiên cứu cho thấy, sữa non là loại thực phẩm hỗ trợ điều trị bệnh tật một cách thần kỳ. Trong thực tế, sữa non có thể giúp tất cả chúng ta phòng ngừa bệnh tật và nó là sự lựa chọn hoàn hảo để giúp cơ thể luôn được cung cấp đầy đủ dưỡng chất thiết yếu.







    Sữa non có rất nhiều thành phần có lợi cho sức khỏe con người, đặc biệt là các kháng thể tự nhiên có trong nó. Tuy nhiên con người chỉ có thể tiết ra một lượng nhỏ sữa non, thì trung bình một con bò có thể sản xuất 30 lít sữa non trong suốt 36 giờ đầu tiên sau khi sinh. Ngoài việc chứa nhiều chất dinh dưỡng, nhiều nghiên cứu y khoa của thế giới cho thấy sữa non của bò còn là thực phẩm hỗ trợ điều trị bệnh thần kỳ đối với cơ thể người già, người bệnh.

    Khi một người đã có tuổi, khả năng chịu lạnh, năng lượng, khả năng nhạy bén cũng giảm, da kém đàn hồi và bị lão hóa, đặc biệt là sự suy giảm hệ miễn dịch. Không có một giải pháp, một loại thực phẩm nào có thể giúp bạn giải quyết những vấn đề trên một cách hoàn hảo. Trong trường hợp này, sữa non là một giải pháp tốt nhất cho bạn.

    Qua hàng trăm báo cáo nghiên cứu khoa học thế giới cho thấy, cơ thể con người có thể thay đổi bởi sữa non của bò, nó cung cấp các thành phần thiết yếu cho cơ thể, các vitamin, axit amin, khoáng chất và đặc biệt là bổ sung hệ miễn dịch tự nhiên cho cơ thể, giúp chống lại những yếu tố có hại từ môi trường. Vì vậy có thể nói sữa non là thực phẩm thần kỳ trong hỗ trợ điều trị bệnh tật.

    Trong quá trình sống, cơ thể con người phải chống chọi với rất nhiều yếu tố có hại từ môi trường bên ngoài tấn công vào. Không những thế, theo nhiều nghiên cứu cho thấy, khi bước qua tuổi dậy thì cơ thể con người sẽ sản xuất ít dần các yếu tố miễn dịch, cùng với quá trình lão hóa, con người sẽ già đi và chết. Với việc bổ sung các thành phần dinh dưỡng thiết yếu cho sự sống, các yếu tố miễn dịch và tăng trưởng, sữa non là thực phẩm hỗ trợ điều trị bệnh thần kỳ không chỉ đối với người già, nó cần thiết cho tất cả chúng ta.




    Không giống như các chất bổ sung khác có những tác dụng phụ nguy hiểm, sữa non luôn luôn là một sự lựa chọn hoàn hảo từ thiên nhiên. Sữa non còn có khả năng diệt vi khuẩn và virus xâm hại, kích thích tái tạo mô (đặc biệt là niêm mạc ruột), tối ưu hóa tái tạo tế bào (chống lão hóa). Với những tác dụng tuyệt vời như vậy, có thể nói sữa non là thực phẩm thần kỳ trong hỗ trợ điều trị bệnh tật.

    LIÊN HỆ NGAY: 0942.239.778  để được tư vấn miễn phí về Sữa Non...

    Thứ Hai, 22 tháng 12, 2014


    Sữa non hay còn gọi là thức ăn đầu tiên của sự sống (tên khoa học gọi là Colostrum). Sữa non là một loại sữa mẹ đặc biệt có màu vàng, đặc dính, xuất hiện vào cuối thời kỳ mang thai và lưu thông qua tuyến vú của người mẹ trong vòng 72 giờ đầu sau khi sinh con. Sữa non có chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng, các kháng thể diệt vi khuẩn, vi rút độc hại và các chất điều hòa miễn dịch giúp cho một cơ thể trẻ sơ sinh chống lại bệnh tật, phát triển và khỏe mạnh.
    Sữa non của bò có thành phần rất toàn diện đã được sử dụng rộng rãi ở các nước Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Á,… Trong những thực phẩm để nuôi sống con người thì sữa non được ví như một thực phẩm vàng cho trẻ mới sinh.
    Sữa non rất giàu Protein kháng khuẩn, kháng thể IgG và vitamin giúp tăng cường hệ miễn dịch của trẻ, giúp trẻ chống lại các vi khuẩn có hại, tăng cường hệ tiêu hóa giúp tống phân xu ra ngoài để bé không bị vàng da. Lượng IgG giảm dần và hầu như mất hẳn sau 7 ngày sau sinh, nhường chỗ cho sữa mẹ thật sự. Chính vì vậy sữa non rất quý hiếm và luôn được các bác sĩ khuyên nên cho bé bú ngay sau khi sinh. 
    Trẻ em từ 6 tháng đến 3 tuổi thường hay ốm vặt vì lúc này Hệ miễn dịch chưa đủ mạnh mà lượng IgG trong sữa mẹ và sữa bột (sữa công thức) quá ít.



    Một số lợi ích cụ thể của sữa non là:
    Có hàm lượng cao các protein bao gồm cả các yếu tố tăng trưởng có lợi (IgF), axit béo chuỗi dài không bão hòa, carbohydrates, Vitamin A, Vitamin K và các kháng thể (IgG, IgM, IgA)
    Sữa non cung cấp hàm lượng chất dinh dưỡng cao trong một thể tích dung dịch thấp rất có ích với trẻ sơ sinh có hệ thống tiêu hóa vẫn đang trong quá trình hình thành. Ngoài ra hàm lượng chất béo thấp, do đó trẻ có thể dễ dàng hấp thụ.
    Tác dụng nhuận tràng, mặc dù nhẹ, vẫn giúp hỗ trợ cho các em bé dễ thải hết phân su.
    Loại bilirubin dư thừa bị xóa bỏ góp phần giúp ngăn ngừa bệnh vàng da.
    Ngăn không cho đường ruột của trẻ sơ sinh bị thấm, vì nó giúp niêm kín các lỗ, tạo ra rào cản với đường tiêu hóa chống lại các chất lạ và nhạy cảm.
    Sữa non có các loại kháng thể immunoglobin IgA, IgD, IgE, IgG, và IgM giúp chống lại việc bị nhiễm trùng, giúp phòng ngừa khỏi các bệnh mãn tính do sự hiện diện của các phân tử được gọi là các yếu tố chuyển giao. Sự hiện diện của acid phytic, chất chống oxy hoá giúp chống lại căn bệnh ung thư.
    Sữa non có bạch cầu, một loại tế bào trắng với khối lượng lớn giúp bảo vệ cơ thể khỏi bệnh, vi rút và vi khuẩn.
    Sữa non của bò có thể được sử dụng như là một chất dinh dướng bổ sung tăng cường sức mạnh thể chất và khả năng miễn dịch nói chung. Sữa non của bò có lactoferrin, glycoprotein và proline- rich polypeptide (PRP) giúp con người chống lại triệu chứng suy giảm hệ miễn dịch. Nó cũng bảo vệ bệnh nhân khỏi căn bệnh tiêu chảy do khuẩn trùng cầu crypto gây ra.
    Sữa non cũng tốt cho người lớn. Sữa non có thể làm tăng nhanh việc chữa lành các vết bầm tím và thương tích, làm giảm các triệu chứng dị ứng, có thể làm tăng trí nhớ và sự tập trung, thúc đẩy quá trình mọc tóc và có thể làm cho tuyến tiền liệt hoạt động tốt hơn.

    Hoàng Phúc

    Sữa non là gì ?

    Posted at  15:44  |  in  Sua non  |  Read More»


    Sữa non hay còn gọi là thức ăn đầu tiên của sự sống (tên khoa học gọi là Colostrum). Sữa non là một loại sữa mẹ đặc biệt có màu vàng, đặc dính, xuất hiện vào cuối thời kỳ mang thai và lưu thông qua tuyến vú của người mẹ trong vòng 72 giờ đầu sau khi sinh con. Sữa non có chứa đầy đủ các chất dinh dưỡng, các kháng thể diệt vi khuẩn, vi rút độc hại và các chất điều hòa miễn dịch giúp cho một cơ thể trẻ sơ sinh chống lại bệnh tật, phát triển và khỏe mạnh.
    Sữa non của bò có thành phần rất toàn diện đã được sử dụng rộng rãi ở các nước Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Á,… Trong những thực phẩm để nuôi sống con người thì sữa non được ví như một thực phẩm vàng cho trẻ mới sinh.
    Sữa non rất giàu Protein kháng khuẩn, kháng thể IgG và vitamin giúp tăng cường hệ miễn dịch của trẻ, giúp trẻ chống lại các vi khuẩn có hại, tăng cường hệ tiêu hóa giúp tống phân xu ra ngoài để bé không bị vàng da. Lượng IgG giảm dần và hầu như mất hẳn sau 7 ngày sau sinh, nhường chỗ cho sữa mẹ thật sự. Chính vì vậy sữa non rất quý hiếm và luôn được các bác sĩ khuyên nên cho bé bú ngay sau khi sinh. 
    Trẻ em từ 6 tháng đến 3 tuổi thường hay ốm vặt vì lúc này Hệ miễn dịch chưa đủ mạnh mà lượng IgG trong sữa mẹ và sữa bột (sữa công thức) quá ít.



    Một số lợi ích cụ thể của sữa non là:
    Có hàm lượng cao các protein bao gồm cả các yếu tố tăng trưởng có lợi (IgF), axit béo chuỗi dài không bão hòa, carbohydrates, Vitamin A, Vitamin K và các kháng thể (IgG, IgM, IgA)
    Sữa non cung cấp hàm lượng chất dinh dưỡng cao trong một thể tích dung dịch thấp rất có ích với trẻ sơ sinh có hệ thống tiêu hóa vẫn đang trong quá trình hình thành. Ngoài ra hàm lượng chất béo thấp, do đó trẻ có thể dễ dàng hấp thụ.
    Tác dụng nhuận tràng, mặc dù nhẹ, vẫn giúp hỗ trợ cho các em bé dễ thải hết phân su.
    Loại bilirubin dư thừa bị xóa bỏ góp phần giúp ngăn ngừa bệnh vàng da.
    Ngăn không cho đường ruột của trẻ sơ sinh bị thấm, vì nó giúp niêm kín các lỗ, tạo ra rào cản với đường tiêu hóa chống lại các chất lạ và nhạy cảm.
    Sữa non có các loại kháng thể immunoglobin IgA, IgD, IgE, IgG, và IgM giúp chống lại việc bị nhiễm trùng, giúp phòng ngừa khỏi các bệnh mãn tính do sự hiện diện của các phân tử được gọi là các yếu tố chuyển giao. Sự hiện diện của acid phytic, chất chống oxy hoá giúp chống lại căn bệnh ung thư.
    Sữa non có bạch cầu, một loại tế bào trắng với khối lượng lớn giúp bảo vệ cơ thể khỏi bệnh, vi rút và vi khuẩn.
    Sữa non của bò có thể được sử dụng như là một chất dinh dướng bổ sung tăng cường sức mạnh thể chất và khả năng miễn dịch nói chung. Sữa non của bò có lactoferrin, glycoprotein và proline- rich polypeptide (PRP) giúp con người chống lại triệu chứng suy giảm hệ miễn dịch. Nó cũng bảo vệ bệnh nhân khỏi căn bệnh tiêu chảy do khuẩn trùng cầu crypto gây ra.
    Sữa non cũng tốt cho người lớn. Sữa non có thể làm tăng nhanh việc chữa lành các vết bầm tím và thương tích, làm giảm các triệu chứng dị ứng, có thể làm tăng trí nhớ và sự tập trung, thúc đẩy quá trình mọc tóc và có thể làm cho tuyến tiền liệt hoạt động tốt hơn.

    Hoàng Phúc

    Thứ Tư, 10 tháng 12, 2014

    THIẾU CANXI


    Thieu canxi - Lý do thiếu canxi ? cần bao nhiêu Canxi mỗi ngàyLý do thiếu canxi và con người cần bao nhiêu Canxi mỗi ngày

    Năm 1998, các chuyên gia tham dự cuộc hội thảo chuyên đề : “Trao đổi chất canxi trong cơ thể người” đã nêu rõ: Nhiều tỷ dân Trung quốc đang trong trạng thái thiếu chất canxi trầm trọng, phụ nữ và trẻ em càng thiếu trầm trọng hơn, hội nghi đã ra lời kêu gọi toàn dân phải gấp rút bổ sung chất canxi, nay việc bổ sung canxi cho toàn dân là việc xã hội rất bức xúc.

     

    Hiện nay, mọi người đã nhận rõ một thực tế đáng quan tâm là: Cơ thể thiếu canxi đang là hiện tượng rất phổ biến.
    Theo tổ chức y tế thế giới WHO
    + Trẻ em 0-1 tuổi: cần 400mg – 600mg /ngày
    + Trẻ em 1-10 tuổi : cần 800 mg /ngày
    + Người lớn  11- 24 tuổi cần 1200 mg /ngày
    + Người lớn 24 – 50 tuổi cần 800mg – 1000mg /ngày
    + Phụ nữ có thai, người cao tuổi: cần 1200 mg – 1500 mg /ngày
    Thiếu canxi ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của trẻ

     

    Thiếu canxi ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của trẻ

    Theo kết quả điều tra người ta thấy rằng: Lượng canxi hấp thụ của dân chúng ở vùng
    +     kinh tế phát triển khá là: 500 mg/ngày/người

     

    +     kinh tế phát triển trung bình là: 350 mg/ ngày/người

     

    +     kinh tế phát triển kém là: 270 mg/ ngày/người

     
    Vậy là người dân thiếu trên 50% lượng Canxi cần thiết cho nhu cầu của cơ thể hàng ngày.
    TẠI SAO CON NGƯỜI THIẾU CANXI?
     Lượng canxi trên trái đất tuy rất nhiều, nhưng con người chỉ có thể hấp thụ canxi qua con đường ăn uống.
    + Sữa và chế phẩm của sữa có hàm lượng canxi phong phú nhưng dân ta lại ít dùng sữa. Một lít sữa bò tiêu chuẩn có hàm lượng canxi là 600mg-700mg. Người dân các nước phát triển trung bình dùng 300 lít sữa người/năm, bình quân 1,64 lít người /ngày
    + Người VIỆT NAM trung bình dùng 5 lít sữa/người/năm, bình quân 0,02 lít sữa/người/ngày.
    + Hơn nữa, loại axít có trong rau lại cản trở sự hấp thu canxi. Việc sử dụng phân bón hóa học cho cây trồng, sử dụng chất kích thích cho động, thực vật mau lớn đã làm hàm lượng của nhiều loại vật chất tự nhiên giảm đi. Qua trắc địa, ta thấy hàm lượng canxi có trong rau chỉ còn khoảng 1/5 so với 100 năm trước.
    + Qua quá trình đun nấu cũng làm thất thoát canxi. Một lít nước lã chứa 300 mg canxi, sau khi đun nấu thì hàm lượng canxi chỉ còn dưới 100mg.
    + Ngày nay, con người ít vận động hơn khi xưa, ít hoạt động ngoài trời, ít tiếp xúc ánh nắng mặt trời cho nên cơ thể không hấp thụ được nhiều canxi. Những thói quen tật xấu như: hút thuốc lá nhiều, uống rươuj nhiều, uống nước trà đặc, uống nhiều cà phê…đều cản trở việc hấp thụ canxi.
    + Những người béo phì do hấp thụ nhiều chất béo và chất đạm dẫn đến axít béo kết hợp với canxi thải ra theo phân, làm cho canxi thất thoát nhiều.
    + Trẻ em dùng nhiều đồ uống đóng chai (lon) trong đồ uống có hàm lượng phốt pho khá cao, cũng cản trở sự hấp thụ canxi. Môi trường ô nhiễm và con người có tiển sử sử dụng chất kích thích hoăc thuốc men cũng có tác dụng cản trở sự hấp thụ canxi.
    Xem ra, vấn đề thiếu canxi là vấn đề của nhân loại toàn cầu. Bổ sung canxi nhằm nâng cao sức khỏe của dân chúng đang là công việc cấp bách.
    BỔ SUNG CANXI VỚI ALPHA LIPID LIFE LINE
                Vitamin D và Canxi rất  cần thiết cho sự phát  triển của xương , làm tăng hấp thu canxi  và phosphate ở ruột, tăng tái hấp thu canxi ở ống lượn gần, tham gia vào quá trình canxi hóa sụn tăng trưởng.

             Không còn lo thiếu canxi với Alpha lipid life line

    Vì vậy vitamin D và Canxi rất cần thiết cho sự phát triển bình thường của trẻ nhỏ. Khi thiếu vitamin D và Canxi, ruột không hấp thu đủ calci và phosphor làm calci máu giảm, khi đó calci bị huy động từ xương ra để ổn định nồng độ calci máu nên gây hậu quả là trẻ em chậm lớn, còi xương, chân vòng kiềng, chậm biết đi. Người lớn sẽ bị loãng xương, xốp xương, xương thưa dễ gãy. Đặc biệt, phụ nữ mang thai và cho con bú thiếu Canxi và Vitamin D có thể sinh ra trẻ khuyết tật ở xương và còi xương.       
    Không còn lo thiếu canxi với Swanson chewable calcium

                          Thiếu canxi dẫn đến loãng xương

    Với Alpha Lipid Life Line có chứa đồng thời 2 hoạt chất Canxi photphat( là canxi hòa tan, không lắng đọng mà hấp thu trực tiếp vào cơ thể ) và vitamin D có tác dụng  tăng cường hấp thu canxi, hỗ trợ và phòng các bệnh về xương (loãng xương, xốp xương, nhuyễn xương).
      Thành phần:
    thành phần của Alpha Lipid Life Line


    Cách dùng: 16gram cho một khẩu phần 150ml nước ấm dước 30độ.
    Dùng bình lắc, lắc đều rồi sử dụng ngay.

    Thiếu CANXI ? Vấn đề của toàn cầu !

    Posted at  14:27  |  in  tu van  |  Read More»

    THIẾU CANXI


    Thieu canxi - Lý do thiếu canxi ? cần bao nhiêu Canxi mỗi ngàyLý do thiếu canxi và con người cần bao nhiêu Canxi mỗi ngày

    Năm 1998, các chuyên gia tham dự cuộc hội thảo chuyên đề : “Trao đổi chất canxi trong cơ thể người” đã nêu rõ: Nhiều tỷ dân Trung quốc đang trong trạng thái thiếu chất canxi trầm trọng, phụ nữ và trẻ em càng thiếu trầm trọng hơn, hội nghi đã ra lời kêu gọi toàn dân phải gấp rút bổ sung chất canxi, nay việc bổ sung canxi cho toàn dân là việc xã hội rất bức xúc.

     

    Hiện nay, mọi người đã nhận rõ một thực tế đáng quan tâm là: Cơ thể thiếu canxi đang là hiện tượng rất phổ biến.
    Theo tổ chức y tế thế giới WHO
    + Trẻ em 0-1 tuổi: cần 400mg – 600mg /ngày
    + Trẻ em 1-10 tuổi : cần 800 mg /ngày
    + Người lớn  11- 24 tuổi cần 1200 mg /ngày
    + Người lớn 24 – 50 tuổi cần 800mg – 1000mg /ngày
    + Phụ nữ có thai, người cao tuổi: cần 1200 mg – 1500 mg /ngày
    Thiếu canxi ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của trẻ

     

    Thiếu canxi ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của trẻ

    Theo kết quả điều tra người ta thấy rằng: Lượng canxi hấp thụ của dân chúng ở vùng
    +     kinh tế phát triển khá là: 500 mg/ngày/người

     

    +     kinh tế phát triển trung bình là: 350 mg/ ngày/người

     

    +     kinh tế phát triển kém là: 270 mg/ ngày/người

     
    Vậy là người dân thiếu trên 50% lượng Canxi cần thiết cho nhu cầu của cơ thể hàng ngày.
    TẠI SAO CON NGƯỜI THIẾU CANXI?
     Lượng canxi trên trái đất tuy rất nhiều, nhưng con người chỉ có thể hấp thụ canxi qua con đường ăn uống.
    + Sữa và chế phẩm của sữa có hàm lượng canxi phong phú nhưng dân ta lại ít dùng sữa. Một lít sữa bò tiêu chuẩn có hàm lượng canxi là 600mg-700mg. Người dân các nước phát triển trung bình dùng 300 lít sữa người/năm, bình quân 1,64 lít người /ngày
    + Người VIỆT NAM trung bình dùng 5 lít sữa/người/năm, bình quân 0,02 lít sữa/người/ngày.
    + Hơn nữa, loại axít có trong rau lại cản trở sự hấp thu canxi. Việc sử dụng phân bón hóa học cho cây trồng, sử dụng chất kích thích cho động, thực vật mau lớn đã làm hàm lượng của nhiều loại vật chất tự nhiên giảm đi. Qua trắc địa, ta thấy hàm lượng canxi có trong rau chỉ còn khoảng 1/5 so với 100 năm trước.
    + Qua quá trình đun nấu cũng làm thất thoát canxi. Một lít nước lã chứa 300 mg canxi, sau khi đun nấu thì hàm lượng canxi chỉ còn dưới 100mg.
    + Ngày nay, con người ít vận động hơn khi xưa, ít hoạt động ngoài trời, ít tiếp xúc ánh nắng mặt trời cho nên cơ thể không hấp thụ được nhiều canxi. Những thói quen tật xấu như: hút thuốc lá nhiều, uống rươuj nhiều, uống nước trà đặc, uống nhiều cà phê…đều cản trở việc hấp thụ canxi.
    + Những người béo phì do hấp thụ nhiều chất béo và chất đạm dẫn đến axít béo kết hợp với canxi thải ra theo phân, làm cho canxi thất thoát nhiều.
    + Trẻ em dùng nhiều đồ uống đóng chai (lon) trong đồ uống có hàm lượng phốt pho khá cao, cũng cản trở sự hấp thụ canxi. Môi trường ô nhiễm và con người có tiển sử sử dụng chất kích thích hoăc thuốc men cũng có tác dụng cản trở sự hấp thụ canxi.
    Xem ra, vấn đề thiếu canxi là vấn đề của nhân loại toàn cầu. Bổ sung canxi nhằm nâng cao sức khỏe của dân chúng đang là công việc cấp bách.
    BỔ SUNG CANXI VỚI ALPHA LIPID LIFE LINE
                Vitamin D và Canxi rất  cần thiết cho sự phát  triển của xương , làm tăng hấp thu canxi  và phosphate ở ruột, tăng tái hấp thu canxi ở ống lượn gần, tham gia vào quá trình canxi hóa sụn tăng trưởng.

             Không còn lo thiếu canxi với Alpha lipid life line

    Vì vậy vitamin D và Canxi rất cần thiết cho sự phát triển bình thường của trẻ nhỏ. Khi thiếu vitamin D và Canxi, ruột không hấp thu đủ calci và phosphor làm calci máu giảm, khi đó calci bị huy động từ xương ra để ổn định nồng độ calci máu nên gây hậu quả là trẻ em chậm lớn, còi xương, chân vòng kiềng, chậm biết đi. Người lớn sẽ bị loãng xương, xốp xương, xương thưa dễ gãy. Đặc biệt, phụ nữ mang thai và cho con bú thiếu Canxi và Vitamin D có thể sinh ra trẻ khuyết tật ở xương và còi xương.       
    Không còn lo thiếu canxi với Swanson chewable calcium

                          Thiếu canxi dẫn đến loãng xương

    Với Alpha Lipid Life Line có chứa đồng thời 2 hoạt chất Canxi photphat( là canxi hòa tan, không lắng đọng mà hấp thu trực tiếp vào cơ thể ) và vitamin D có tác dụng  tăng cường hấp thu canxi, hỗ trợ và phòng các bệnh về xương (loãng xương, xốp xương, nhuyễn xương).
      Thành phần:
    thành phần của Alpha Lipid Life Line


    Cách dùng: 16gram cho một khẩu phần 150ml nước ấm dước 30độ.
    Dùng bình lắc, lắc đều rồi sử dụng ngay.

    Thứ Ba, 15 tháng 4, 2014



    Sữa non có nhiều trong 3 ngày đầu sau sinh. Sữa non giàu chất đạm, chất kháng thể, vitamin A và bạch cầu. Nên cố gắng cho bé bú càng sớm càng tốt để tận dụng nguồn sữa quý giá này dù mẹ mới sinh còn mệt, hay bé mút vú chưa thành thạo.



    Tăng cường sức đề kháng, nâng cao hệ miễn dịch cho bé
    Khi còn trong bụng mẹ, bé có được một hệ miễn dịch tuyệt vời từ cơ thể mẹ, hệ miễn dịch này như một lá chắn để bảo vệ và giúp bé khỏe mạnh.Sau khi sinh, nguồn sữa mẹ sẽ tiếp tục cung cấp các dưỡng chất để nuôi dưỡng hệ miễn dịch còn non yếu của bé. Tuy nhiên, lượng kháng thể từ sữa mẹ sẽ giảm dần theo thời gian cùng với sự phát triển và hành trình thích nghi với thế giới bên ngoài của trẻ. Có thể bé bắt đầu tự tăng cường sản xuất các kháng thể, tuy nhiên hàm lượng không đủ lớn để bù đắp lại sự thiếu hụt do sự suy giảm hàm lượng kháng thể được truyền từ sữa mẹ. Tổng lượng kháng thể toàn phần của trẻ sẽ bị giảm mạnh, vì vậy bé rất dễ bị tấn công bởi các tác nhân gây bệnh bên ngoài như vi khuẩn, vi rút, nấm... Sữa non giống có thể gọi như là vacxin đầu tiên, tự nhiên an toàn nhất cho bé vì sữa non có chứa Globulin miễn dịch ( viết tắt các kháng thể IgG, IgA, IgM) để chống lại các vi khuẩn, vi rút, nấm… Ngoài ra sữa non chứa Lactoferrin vừa kìm khuẩn, vừa diệt khuẩn, nhờ phá vỡ được màng vi khuẩn. Lactoferrin còn gắn được vào virus, ngăn cản không cho virus xâm nhập và tế bào lành.
    Với những thành phần quý giá trên sữa non rất cần cho mọi trẻ em và cả những người trưởng thành, người giảm miễn dịch như tuổi già, mới ốm dậy, phụ nữ đang mang thai.

    Colostrum New Zealand nổi tiếng là sữa non chất lượng cao nhất thế giới.
    Ở New Zealand Bộ Nông nghiệp và Lâm nghiệp đã đưa ra các tiêu chuẩn nghiêm ngặt nhằm quản lý ngành công nghiệp chế biến sữa. Sữa non New Zealand được lựa chọn từ những con bò chỉ ăn cỏ mà không ăn thức ăn gia súc. Việc sử dụng kháng sinh và hormones cho bò sữa ở New Zealandlà bị cấm. Việc vi phạm điều này có thể bị phạt lên tới 100 000$.
    Ở New Zealand sữa non được bảo quản trong những thùng lạnh sau khi được vắt và được diệt khuẩn ở nhiệt độ 72°C trong vòng 15s. Ở các quốc gia khác họ làm lạnh Colostrum sau đó diệt khuẩn ở nhiệt độ cao làm mất đi các phân tử protein và các thành phần hoạt tính có sẵn trong sữa non. Phương pháp khử trùng mới mẻ này đã giúp bảo vệ các thành phần quý giá trong sữa non.
    Phòng thí nghiệm đã thử nghiệm và cho thấy không có sự hiện diện của kim loại nặng, thuốc trừ sâu, mầm bệnh và nguồn bệnh cũng như khuẩn Salmonella và E. coli.
    Sản xuất tại New Zealand theo tiêu chuẩn quốc tế. Tan trong nước, được xử lý ở nhiệt độ thấp. Không chứa ngũ cốc, gluten, đường, tinh bột, bột mỳ, men, mầu nhân tạo, hương tổng hợp và chất bảo quản.
    Chi tiết sản phẩm bổ sung sữa non Alpha lipid life line, xem tại đây: http://www.suanon.us/2014/01/tap-oan-new-image-viet-nam.html

    Sữa non – Tăng cường sức đề kháng, nâng cao hệ miễn dịch cho bé

    Posted at  14:46  |  in  Sua non  |  Read More»



    Sữa non có nhiều trong 3 ngày đầu sau sinh. Sữa non giàu chất đạm, chất kháng thể, vitamin A và bạch cầu. Nên cố gắng cho bé bú càng sớm càng tốt để tận dụng nguồn sữa quý giá này dù mẹ mới sinh còn mệt, hay bé mút vú chưa thành thạo.



    Tăng cường sức đề kháng, nâng cao hệ miễn dịch cho bé
    Khi còn trong bụng mẹ, bé có được một hệ miễn dịch tuyệt vời từ cơ thể mẹ, hệ miễn dịch này như một lá chắn để bảo vệ và giúp bé khỏe mạnh.Sau khi sinh, nguồn sữa mẹ sẽ tiếp tục cung cấp các dưỡng chất để nuôi dưỡng hệ miễn dịch còn non yếu của bé. Tuy nhiên, lượng kháng thể từ sữa mẹ sẽ giảm dần theo thời gian cùng với sự phát triển và hành trình thích nghi với thế giới bên ngoài của trẻ. Có thể bé bắt đầu tự tăng cường sản xuất các kháng thể, tuy nhiên hàm lượng không đủ lớn để bù đắp lại sự thiếu hụt do sự suy giảm hàm lượng kháng thể được truyền từ sữa mẹ. Tổng lượng kháng thể toàn phần của trẻ sẽ bị giảm mạnh, vì vậy bé rất dễ bị tấn công bởi các tác nhân gây bệnh bên ngoài như vi khuẩn, vi rút, nấm... Sữa non giống có thể gọi như là vacxin đầu tiên, tự nhiên an toàn nhất cho bé vì sữa non có chứa Globulin miễn dịch ( viết tắt các kháng thể IgG, IgA, IgM) để chống lại các vi khuẩn, vi rút, nấm… Ngoài ra sữa non chứa Lactoferrin vừa kìm khuẩn, vừa diệt khuẩn, nhờ phá vỡ được màng vi khuẩn. Lactoferrin còn gắn được vào virus, ngăn cản không cho virus xâm nhập và tế bào lành.
    Với những thành phần quý giá trên sữa non rất cần cho mọi trẻ em và cả những người trưởng thành, người giảm miễn dịch như tuổi già, mới ốm dậy, phụ nữ đang mang thai.

    Colostrum New Zealand nổi tiếng là sữa non chất lượng cao nhất thế giới.
    Ở New Zealand Bộ Nông nghiệp và Lâm nghiệp đã đưa ra các tiêu chuẩn nghiêm ngặt nhằm quản lý ngành công nghiệp chế biến sữa. Sữa non New Zealand được lựa chọn từ những con bò chỉ ăn cỏ mà không ăn thức ăn gia súc. Việc sử dụng kháng sinh và hormones cho bò sữa ở New Zealandlà bị cấm. Việc vi phạm điều này có thể bị phạt lên tới 100 000$.
    Ở New Zealand sữa non được bảo quản trong những thùng lạnh sau khi được vắt và được diệt khuẩn ở nhiệt độ 72°C trong vòng 15s. Ở các quốc gia khác họ làm lạnh Colostrum sau đó diệt khuẩn ở nhiệt độ cao làm mất đi các phân tử protein và các thành phần hoạt tính có sẵn trong sữa non. Phương pháp khử trùng mới mẻ này đã giúp bảo vệ các thành phần quý giá trong sữa non.
    Phòng thí nghiệm đã thử nghiệm và cho thấy không có sự hiện diện của kim loại nặng, thuốc trừ sâu, mầm bệnh và nguồn bệnh cũng như khuẩn Salmonella và E. coli.
    Sản xuất tại New Zealand theo tiêu chuẩn quốc tế. Tan trong nước, được xử lý ở nhiệt độ thấp. Không chứa ngũ cốc, gluten, đường, tinh bột, bột mỳ, men, mầu nhân tạo, hương tổng hợp và chất bảo quản.
    Chi tiết sản phẩm bổ sung sữa non Alpha lipid life line, xem tại đây: http://www.suanon.us/2014/01/tap-oan-new-image-viet-nam.html

    Thứ Hai, 3 tháng 3, 2014

    Sữa non là “thức ăn đầu tiên” của sự sống, tiết ra vào cuối thời kỳ mang thai, lưu thông trong tuyến vú của người mẹ trong vòng 72 giờ sau khi sinh con.
    Sữa non có ích cho trẻ sơ sinh
    Mỗi giọt sữa non hứa hẹn sự sống mới, mà nếu trẻ sơ sinh không bú ngay trong những ngày đầu sẽ gặp trục trặc về sức khỏe. Ngoài làm thức ăn cho trẻ sơ sinh, sữa non còn là “thực phẩm - thuốc” cho mọi người.
    Sữa non dễ tiêu hóa vì rất ít mỡ (Trẻ rất khó tiêu hóa được mỡ!), nhưng giàu chất đạm, đường, chất khoáng, các loại vitamin và kháng thể… giúp trẻ phát triển.
    Trẻ sơ sinh bú sữa non tiện lợi vì trẻ có thể tích dạ dày hẹp (chất lượng sữa non hơn hẳn sữa thường là lượng em bé bú vào chỉ cần rất ít là đủ!).
    Dạ dày một ngày tuổi khoảng 5 – 7ml (bằng kích cỡ một hòn bi), lượng sữa non bú vào dù ít nhưng cũng đủ đáp ứng nhu cầu trong ngày đầu tiên. Đến ngày thứ 3, dạ dày lớn hơn “chút xíu” và trẻ cần bú luôn (mỗi lần một ít) để thỏa mãn nhu cầu, cùng lúc kích thích mẹ sản xuất nhiều sữa hơn, ngăn ngừa vú căng sữa, tắc sữa. Khoảng ngày thứ 7, dạ dày mới đạt kích cỡ một quả bóng bàn! Nếu không có sữa non, trẻ dễ bị nhiễm khuẩn do thiếu kháng thể, bị thui chột sức lớn do thiếu dinh dưỡng.
    Sữa non còn nhuận tràng nhẹ, giúp trẻ tống phân đầu tiên (phân su) ra ngoài, kéo theo những cặn bã tích lũy từ khi em bé còn nằm trong bụng mẹ, thả được cả bilirubin dư thừa (do hồng cầu chết tạo ra), giúp ngừa bệnh vàng da trẻ sơ sinh.
    Trẻ thiếu tháng, thiếu cân, quá yếu, cứ từng 2 giờ nhỏ giọt vào miệng – hầu 0,2 ml sữa non của mẹ, nhỏ liền trong 48 giờ bắt đầu từ khi ra đời sẽ hưởng lợi lớn nhờ được kích thích miễn dịch toàn cơ thể, tránh các bệnh hô hấp, tiêu hóa và nhiều bệnh khác, bảo vệ chống nhiễm khuẩn mắc ở bệnh viện (như viêm phổi).
    Lúc sơ sinh, tuổi ấu thơ còn trong trắng, chưa đủ trang bị để chống “kẻ xâm lược” (là vi khuẩn, vi rút, nấm, các chất độc …), nếu bú sữa non, trẻ sẽ có ngay và đầy đủ vũ khí (là các kháng thể và các chất bảo vệ khác) chỉ trong vài ngày để tự bảo vệ!
    Ngược lại, nếu không bú sữa non, sẽ chỉ có zero (con số không) kháng thể trong người và em bé phải mất hàng nhiều tháng sau đó mới tự phát triển được hệ thống miễn dịch của chúng, mà còn gặp khó khăn.
    Nồng độ các kháng thể, các “chất bổ” ở sữa non đậm đặc hơn rất nhiều so với ở sữa trưởng thành. “Tính chiến đấu” của sữa non chống kẻ xâm lược (là các kháng nguyên) cũng rất cao, cao hơn nhiều so với ở sữa trưởng thành.
    Vì những lẽ trên, sữa non còn được tôn vinh là sữa đầu tiên, sữa miễn dịch, “vàng lỏng”.
    nuoi-con-bang-sua-me-3

    Sữa non cần cho mọi người
    Trong cuộc sống bị ảnh hưởng xấu của mọi loại ô nhiễm, ta khó tránh khỏi va chạm với nhiều yếu tố gây bệnh cấp và mạn tính. Chất lạ xâm nhập vào cơ thể, bạn có thể không đủ khả năng chống chọi với chúng trước khi chúng nhân lên gây phiền hà cho sức khỏe của bạn.
    Thiểu năng (suy giảm) miễn dịch như tuổi già, suy dinh dưỡng, thiếu đạm, vitamin, chất khoáng, nhiễm khuẩn, mắc bệnh kinh niên, suy gan, suy thận, nghiện rượu, nghiện thuốc lá, trác táng … sẽ kéo theo nhiều thứ bệnh thứ phát khác.
    Những thành phần dưới đây trong sữa non giúp duy trì sức khỏe sơ sinh, cũng rất cần cho mọi trẻ em, mọi người trưởng thành.
    Các globulin miễn dịch
    Viết tắt là Ig, tác động như một kháng thể (tức chất bảo vệ cho cơ thể) chống lại các kháng nguyên (là chất lạ gây nguy hiểm như vi khuẩn, vi rút, nấm…)
    Sữa non chứa nhiều loại Ig (IgA, IgM, IgG). Chức năng của Ig trong hệ miễn dịch là nhận biết “cái lạ, cái nguy hiểm” (tức kháng nguyên) và tác động để diệt “cái lạ” đó.
    Lysozym
    Lysozym được tiết vào các tuyến của niêm mạc nước mắt, nước bọt, nước mũi để diệt khuẩn
    Lactoferrin
    Lactoferrin vừa kìm khuẩn, vừa diệt khuẩn, nhờ phá vỡ được màng vi khuẩn. Lactoferrin còn gắn được vào virus, ngăn cản không cho virus xâm nhập và tế bào lành.
    Oligosaccharid
    Đóng vai trò bảo vệ hàng rào niêm mạc nhờ ức chế sự gắn mầm bệnh vào bề mặt tế bào biểu mô, giúp chống nhiễm khuẩn.
    Oligosaccharide dính chặt vào vi khuẩn trong khoang miệng, chống viêm nhiễm miệng – hầu, cũng làm giảm nguy cơ viêm tai giữa và nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới (phổi).
    Bạch cầu
    Bạch cầu có hàm lượng rất cao trong sữa non. Bạch cầu là những “tế bào miễn dịch sống”.
    Những thành phần khác của sữa non
    Sữa non còn chứa:
    -    Vitamin A, C, D, E và các vitamin nhóm B.
    -    Chất khoáng: Natri, Kali, Calci, Magie, sắt, đồng, kẽm, crom, selen, phốt pho…
    -    26 loại acid amin.
    -    Và còn nhiều chất khác giúp tăng sức đề kháng.

    Sữa non của bò
    Mới chỉ từ giữa thế kỷ 20 các tổ chức nghiên cứu trên thế giới mới hoàn chỉnh sản xuất sữa non chuẩn ổn định dưới dạng bột. Sữa non bò cái có thành phần rất giống sữa non người. Hiện nay dùng sữa non bò cho nhiều lợi ích. Ví dụ, IGF – 1 là chất bồi dưỡng cơ, bắt chước tác dụng của nội tiết tố tăng trưởng, thấy IGF -1 trong sữa non bò có hàm lượng gấp 200 lần trong sữa bò thường. Sữa non bò rất giàu Ig, có lượng Ig gấp 100 lần so với ở trong sữa thường. Bổ sung 2 tuần sữa non bò làm tăng 33% IgA.
    Nồng độ cao Ig trong sữa non bò là cơ sở tin cậy để điều trị suy giảm miễn dịch. Sau luyện tập cường độ cao kéo dài, bổ sung sữa non bò sẽ bù đắp sự thiếu hụt lysozym và các kháng thể khác, làm tăng chức năng bạch cầu trung tính, giúp vận động viên hồi phục nhanh sức khỏe.
    Sữa non bò làm giảm nồng độ glucose máu, giúp vận chuyển glucose vào cơ, hỗ trợ điều trị đái tháo đường tuýp 2 và béo phì.
    Sữa non, chất “vàng lỏng” quý hiếm, cần cho mọi đối tượng: người mang thai, cho con bú, trẻ sơ sinh, mọi người lớn khỏe mạnh, ốm yếu, người cao tuổi mà không có tác dụng phụ.

    GS. TSKH Hoàng Tích Huyền

    Lợi ích tuyệt vời của sữa non (Colostrum)

    Posted at  16:52  |  in  Sua non  |  Read More»

    Sữa non là “thức ăn đầu tiên” của sự sống, tiết ra vào cuối thời kỳ mang thai, lưu thông trong tuyến vú của người mẹ trong vòng 72 giờ sau khi sinh con.
    Sữa non có ích cho trẻ sơ sinh
    Mỗi giọt sữa non hứa hẹn sự sống mới, mà nếu trẻ sơ sinh không bú ngay trong những ngày đầu sẽ gặp trục trặc về sức khỏe. Ngoài làm thức ăn cho trẻ sơ sinh, sữa non còn là “thực phẩm - thuốc” cho mọi người.
    Sữa non dễ tiêu hóa vì rất ít mỡ (Trẻ rất khó tiêu hóa được mỡ!), nhưng giàu chất đạm, đường, chất khoáng, các loại vitamin và kháng thể… giúp trẻ phát triển.
    Trẻ sơ sinh bú sữa non tiện lợi vì trẻ có thể tích dạ dày hẹp (chất lượng sữa non hơn hẳn sữa thường là lượng em bé bú vào chỉ cần rất ít là đủ!).
    Dạ dày một ngày tuổi khoảng 5 – 7ml (bằng kích cỡ một hòn bi), lượng sữa non bú vào dù ít nhưng cũng đủ đáp ứng nhu cầu trong ngày đầu tiên. Đến ngày thứ 3, dạ dày lớn hơn “chút xíu” và trẻ cần bú luôn (mỗi lần một ít) để thỏa mãn nhu cầu, cùng lúc kích thích mẹ sản xuất nhiều sữa hơn, ngăn ngừa vú căng sữa, tắc sữa. Khoảng ngày thứ 7, dạ dày mới đạt kích cỡ một quả bóng bàn! Nếu không có sữa non, trẻ dễ bị nhiễm khuẩn do thiếu kháng thể, bị thui chột sức lớn do thiếu dinh dưỡng.
    Sữa non còn nhuận tràng nhẹ, giúp trẻ tống phân đầu tiên (phân su) ra ngoài, kéo theo những cặn bã tích lũy từ khi em bé còn nằm trong bụng mẹ, thả được cả bilirubin dư thừa (do hồng cầu chết tạo ra), giúp ngừa bệnh vàng da trẻ sơ sinh.
    Trẻ thiếu tháng, thiếu cân, quá yếu, cứ từng 2 giờ nhỏ giọt vào miệng – hầu 0,2 ml sữa non của mẹ, nhỏ liền trong 48 giờ bắt đầu từ khi ra đời sẽ hưởng lợi lớn nhờ được kích thích miễn dịch toàn cơ thể, tránh các bệnh hô hấp, tiêu hóa và nhiều bệnh khác, bảo vệ chống nhiễm khuẩn mắc ở bệnh viện (như viêm phổi).
    Lúc sơ sinh, tuổi ấu thơ còn trong trắng, chưa đủ trang bị để chống “kẻ xâm lược” (là vi khuẩn, vi rút, nấm, các chất độc …), nếu bú sữa non, trẻ sẽ có ngay và đầy đủ vũ khí (là các kháng thể và các chất bảo vệ khác) chỉ trong vài ngày để tự bảo vệ!
    Ngược lại, nếu không bú sữa non, sẽ chỉ có zero (con số không) kháng thể trong người và em bé phải mất hàng nhiều tháng sau đó mới tự phát triển được hệ thống miễn dịch của chúng, mà còn gặp khó khăn.
    Nồng độ các kháng thể, các “chất bổ” ở sữa non đậm đặc hơn rất nhiều so với ở sữa trưởng thành. “Tính chiến đấu” của sữa non chống kẻ xâm lược (là các kháng nguyên) cũng rất cao, cao hơn nhiều so với ở sữa trưởng thành.
    Vì những lẽ trên, sữa non còn được tôn vinh là sữa đầu tiên, sữa miễn dịch, “vàng lỏng”.
    nuoi-con-bang-sua-me-3

    Sữa non cần cho mọi người
    Trong cuộc sống bị ảnh hưởng xấu của mọi loại ô nhiễm, ta khó tránh khỏi va chạm với nhiều yếu tố gây bệnh cấp và mạn tính. Chất lạ xâm nhập vào cơ thể, bạn có thể không đủ khả năng chống chọi với chúng trước khi chúng nhân lên gây phiền hà cho sức khỏe của bạn.
    Thiểu năng (suy giảm) miễn dịch như tuổi già, suy dinh dưỡng, thiếu đạm, vitamin, chất khoáng, nhiễm khuẩn, mắc bệnh kinh niên, suy gan, suy thận, nghiện rượu, nghiện thuốc lá, trác táng … sẽ kéo theo nhiều thứ bệnh thứ phát khác.
    Những thành phần dưới đây trong sữa non giúp duy trì sức khỏe sơ sinh, cũng rất cần cho mọi trẻ em, mọi người trưởng thành.
    Các globulin miễn dịch
    Viết tắt là Ig, tác động như một kháng thể (tức chất bảo vệ cho cơ thể) chống lại các kháng nguyên (là chất lạ gây nguy hiểm như vi khuẩn, vi rút, nấm…)
    Sữa non chứa nhiều loại Ig (IgA, IgM, IgG). Chức năng của Ig trong hệ miễn dịch là nhận biết “cái lạ, cái nguy hiểm” (tức kháng nguyên) và tác động để diệt “cái lạ” đó.
    Lysozym
    Lysozym được tiết vào các tuyến của niêm mạc nước mắt, nước bọt, nước mũi để diệt khuẩn
    Lactoferrin
    Lactoferrin vừa kìm khuẩn, vừa diệt khuẩn, nhờ phá vỡ được màng vi khuẩn. Lactoferrin còn gắn được vào virus, ngăn cản không cho virus xâm nhập và tế bào lành.
    Oligosaccharid
    Đóng vai trò bảo vệ hàng rào niêm mạc nhờ ức chế sự gắn mầm bệnh vào bề mặt tế bào biểu mô, giúp chống nhiễm khuẩn.
    Oligosaccharide dính chặt vào vi khuẩn trong khoang miệng, chống viêm nhiễm miệng – hầu, cũng làm giảm nguy cơ viêm tai giữa và nhiễm khuẩn đường hô hấp dưới (phổi).
    Bạch cầu
    Bạch cầu có hàm lượng rất cao trong sữa non. Bạch cầu là những “tế bào miễn dịch sống”.
    Những thành phần khác của sữa non
    Sữa non còn chứa:
    -    Vitamin A, C, D, E và các vitamin nhóm B.
    -    Chất khoáng: Natri, Kali, Calci, Magie, sắt, đồng, kẽm, crom, selen, phốt pho…
    -    26 loại acid amin.
    -    Và còn nhiều chất khác giúp tăng sức đề kháng.

    Sữa non của bò
    Mới chỉ từ giữa thế kỷ 20 các tổ chức nghiên cứu trên thế giới mới hoàn chỉnh sản xuất sữa non chuẩn ổn định dưới dạng bột. Sữa non bò cái có thành phần rất giống sữa non người. Hiện nay dùng sữa non bò cho nhiều lợi ích. Ví dụ, IGF – 1 là chất bồi dưỡng cơ, bắt chước tác dụng của nội tiết tố tăng trưởng, thấy IGF -1 trong sữa non bò có hàm lượng gấp 200 lần trong sữa bò thường. Sữa non bò rất giàu Ig, có lượng Ig gấp 100 lần so với ở trong sữa thường. Bổ sung 2 tuần sữa non bò làm tăng 33% IgA.
    Nồng độ cao Ig trong sữa non bò là cơ sở tin cậy để điều trị suy giảm miễn dịch. Sau luyện tập cường độ cao kéo dài, bổ sung sữa non bò sẽ bù đắp sự thiếu hụt lysozym và các kháng thể khác, làm tăng chức năng bạch cầu trung tính, giúp vận động viên hồi phục nhanh sức khỏe.
    Sữa non bò làm giảm nồng độ glucose máu, giúp vận chuyển glucose vào cơ, hỗ trợ điều trị đái tháo đường tuýp 2 và béo phì.
    Sữa non, chất “vàng lỏng” quý hiếm, cần cho mọi đối tượng: người mang thai, cho con bú, trẻ sơ sinh, mọi người lớn khỏe mạnh, ốm yếu, người cao tuổi mà không có tác dụng phụ.

    GS. TSKH Hoàng Tích Huyền

    Các chuyên gia sức khoẻ thường xuyên khuyến cáo các bà mẹ bằng mọi giá phải cho con bú ngay một giờ sau khi sinh, để tận dụng nguồn sữa non (Colostrum), chứa rất nhiều kháng thể
    Với trẻ sơ sinh, hệ thống miễn dịch chưa hoàn thiện, sức đề kháng còn yếu, nên rất dễ bị các vi trùng nguy hại bên ngoài tấn công.
    sua-non-nguon-thuc-an-quy-gia
    Trẻ sơ sinh dễ bị vi trùng xâm nhập
    Khi còn nằm trong bụng mẹ, bé được bảo vệ nhờ hệ thống miễn dịch tự nhiên của mẹ cũng như được hưởng những kháng thể khoẻ mạnh được truyền qua nhau thai. Khi bé chào đời, với việc cắt rốn, nguồn kháng thể quý giá từ mẹ truyền sang cũng bị cắt theo, khiến lượng kháng thể của trẻ giảm đột ngột trong khi bé chưa có khả năng tạo ra các kháng thể đủ để đề kháng lại với các yếu tố gây bệnh.
    Đây cũng là lúc bé bắt đầu chuyển sang môi trường hoàn toàn khác: nhiệt độ thay đổi, môi trường ô nhiễm, bụi bặm, và không loại trừ bé phải tiếp xúc với rất nhiều các vi khuẩn nguy hại. Theo thống kê, tiêu chảy và viêm phổi là hai bệnh nhiễm trùng phổ biến nhất và gây tử vong hàng đầu ở trẻ em trong năm đầu sau khi sinh.
    Trong năm đầu đời, sức đề kháng của trẻ là rất yếu. Đến tháng thứ 9, sức đề kháng của trẻ mới chỉ đạt được 60% so với người trưởng thành.
    Sữa mẹ luôn là nguồn dinh dưỡng tốt nhất vì nó có chứa các kháng thể, đặc biệt là sữa non Colostrum có nhiều trong 3 ngày đầu khi bé sinh.
    Vì sao chúng ta cần colostrum ?
    Thiên nhiên rất giỏi trong việc ngăn ngừa bệnh tật cho chúng ta. Trong khi chúng ta già đi thì việc chống chọi với cảm cúm, thời tiết lạnh rất khó, năng lực và tính năng động của chúng ta bị giảm sút, da mất tính đàn hồi, trọng lượng tăng và chúng ta mất sự săn chắc của cơ bắp. Lý do là vì khi trường thành cơ thể mất dần các nhân tố kháng thể tự nhiên và tăng trưởng.
    Trong gần 20 năm trở lại đây rất nhiều nghiên cứu đã chúng minh rằng colostrum cần thiết cho mọi người chứ không riêng gì trẻ sơ sinh. Colostrum có tính năng kháng oxy hóa, kháng viêm, là nguồn vitamin, khoáng chất, enzym và acid amin lớn. Colostrum sữa bò giúp cơ thể loại trừ các tác nhân xâm hại, tái tạo lại hệ miễn nhiễm, tăng cường mức độ lành bệnh của tất cả các mô, tăng khối xương và cơ bắp và hoàn thiện quá trình lão hóa.
    Colostrum giúp bé tăng sức đề kháng
    Colostrum là một loại sữa non hay còn được gọi là thức ăn đầu tiên của sự sống. Đó là một dạng vật chất có màu vàng, đặc, xuất hiện vào cuối thời kỳ mang thai và lưu thông qua tuyến vú của người mẹ trong vòng 72 giờ đầu sau khi sinh con (Colostrums là tiết ra trong khoảng 48 giờ sau khi sinh con. Sau 48-72 giờ là sữa quá độ. Sau 72 giờ là sữa bình thường). Các nghiên cứu khoa học cho thấy Colostrum của sữa bò đặc biệt giống với Colostrum từ các bà mẹ và mỗi giọt Colostrum hứa hẹn sự sống mới nhờ thành phần có chứa:
    • Globulin miễn nhiễm có thể cung cấp cho cơ thể sự phòng thủ tối đa đề phòng và chữa lành các căn bệnh do vi-rút, vi khuẩn, nấm men, và các loại dị ứng gây ra. Colostrum chất lượng cao phải được đảm bảo chứa tối thiểu 18% globulin miễn nhiễm.
    • Kháng thể trong Colostrum được chứng minh là rất đặc biệt, có thể chống lại 19 loại mầm bệnh đặc biệt khác nhau như: E.colin, khuẩn salmonela - loại vi khuẩn làm cho thức ăn trở nên độc, candida, khuẩn liên cầu - loại vi khuẩn gây ra nhiễm trùng, khuẩn tụ cầu, v.v…
    • Gluco protein có chức năng bảo vệ các nhân tố miễn nhiễm và phát triển khỏi sự phá huỷ của các loại thức uống giúp tiêu hoá ở bao tử hoặc đường ruột.
    • Các nhân tố phát triển về miễn nhiễm giúp kích thích sự phát triển tự nhiên, và giúp tái sinh, thúc mau quá trình hoàn chỉnh của cơ, collagen, xương, sụn và mô thần kinh bị lão hoá hoặc bị thương.
    Mặc dù các cơ quan y tế không ngừng khuyên chúng ta nên nuôi con bằng sữa mẹ trong suốt 12 tháng đầu đời của bé thế nhưng thực tế cho thấy rất ít người mẹ có đủ điều kiện thực hiện việc này. Chúng ta quá bận bịu với những công việc xung quanh trong xã hội năng động như hiện nay nên hầu hết các bé được mẹ dứt sữa ở giai đoạn từ 6-8 tháng tuổi.
    Do nó có nhiều kháng thể và bạch cầu nên trẻ được bú sữa non sẽ tránh được dị ứng và một số căn bệnh nhiễm khuẩn. Các bạch cầu này có khả năng bảo vệ cơ thể chống lại các vi khuẩn đường ruột. Do vậy, nếu cho bé bú sớm sau khi sinh và bú đều đặn, trẻ sẽ không mắc các bệnh như sởi, ho gà, ít bị viêm đường hô hấp và tiêu chảy.
    Colostrum còn phòng ngừa được bệnh khô mắt, đồng thời giúp trẻ tăng trưởng và tăng cân nhanh.
    Việc bổ sung thêm các thành phần giúp tăng sức đề kháng cho trẻ đã luôn được các hãng sữa quan tâm. Tuy nhiên, lý tưởng nhất là thành phần đưa vào này có nguồn gốc tự nhiên để bảo đảm an toàn tuyệt đối cũng như hiệu quả của nó đem lại. Và tất nhiên, nếu được bổ sung ngay chính Colostrum sẽ là tốt nhất.
    Với thành phần quý giá kể trên, Colostrum không chỉ tốt cho trẻ sơ sinh mà còn tốt cho những bé trên 1 tuổi và với cơ thể trưởng thành. Sau giai đoạn dậy thì, sự tăng trưởng và việc sản xuất các yếu tố miễn dịch của cơ thể sẽ giảm từ từ. Sữa non là nguồn duy nhất chứa những yếu tố miễn dịch tự nhiên, kích thích sự tái tạo mô, đốt cháy mỡ trong cơ thể để tạo ra năng lượng và hạn chế quá trình lão hóa...
    Như vậy, có thể thấy rằng, Colostrum kết hợp trong mình các đặc tính của vắc-xin đa năng, kích thích tố sinh học và thực phẩm giàu dinh dưỡng và dễ hấp thụ nhất, rất cần thiết và có ích không chỉ đối với trẻ mà còn đối với người lớn.
    Thành phần của colostrum?
    Colostrum cung cấp những nhân tố kháng thể và tăng trưởng và sự kết hợp hoàn hảo của các vitamin và khoáng chất nhằm bảo đảm sức khỏe, năng lực và sự tăng trưởng cho bé. Người ta cho rằng sữa non thúc đẩy ít nhất là năm mươi cơ chế trong trẻ sơ sinh, kể cả phân chuyển tất cả những nhân tố miễn nhiễm và trí não tổng quát từ chính hệ miễn nhiễm của bà mẹ.
    Nghiên cứu y học đã chứng minh rằng các nhân tố kháng thể đặc biệt quan trọng và tăng trưởng cho con người có thể được cung cấp từ colostrum của sữa bò. Nó thật sự được dung nạp cho tất cả loài hữu nhũ, kể cả con người và còn có tính năng kháng thể cao hơn gấp 40 lần so với colostrum trong sữa mẹ. Thí dụ : colostrum sữa mẹ chỉ có 2% IgG (immunoglobuline G), loại kháng thể quan trọng trong cơ thể, so với 86% trong colostrum bò. Ngoài ra còn có glycoprotein đặc biệt cực kỳ hiệu quả để bảo vệ các nhân tố kháng thể và tăng trưởng khỏi sự phá hủy của enzym tiêu hóa từ người lớn. Ngoài ra colostrum còn chứa khoảng 6 nhân tố tăng trưởng, 20 nhân tố kháng thể…
    Sữa bò non, nguồn thực phẩm tự nhiên rất tốt
    Thật lạ khi nghe nói sữa bò non là loại thuốc loại thực phẩm rất tốt mà thiên nhiên ban tặng cho con người , chỉ có điều chúng ta chưa thật sự quan tâm và tận dụng nó. Trên thế giới, các chế phẩm sữa bò non đang là sản phẩm có tốc độ tăng trưởng doanh số nhanh nhất. Sữa bò non là gì vậy?
    Do không có đủ sữa non để dung, các nhà khoa học thấy rằng các yếu tố miễn dịch và tăng trưởng có trong sữa bò non của bò mẹ sau khi đẻ con gần như đồng nhất với sữa non của người và là nguồn thay thế hữu hiệu cho nhu cầu của con người. Ngoài những chất dinh dưỡng như đạm, béo, carbonhydrate, vitamine và các chất khoáng, sữa bò non còn chứa các yếu tố tăng trưởng và miễn dịch nhưng quan trọng hơn hết là những yếu tố chuyển dịch (transfer factor). Các yếu tố chuyển dịch này sẽ kích hoạt cho việc hình thành hệ thống miễn dịch ở trẻ sơ sinh. Còn đối với người trưởng thành được sử dụng sữa bò non thì hệ thống miễn dịch được cải thiện trở nên mạnh mẽ hơn.
    Ngày nay có rất nhiều chế phẩm của sữa bò non dạng bột được sản xuất dưới dạng viên nang (capsule), viên nén (table), dạng gel... Chúng không phải là thuốc để trị bệnh mà được xem như thực phẩm dùng để hỗ trợ dinh dưỡng và giúp cải thiện hệ miễn dịch của cơ thể. Loại thực phẩm “sữa bò non” này dễ sử dụng, không gây tác dụng phụ đối với cơ thể trừ những người có cơ địa dị ứng với sữa và các chế phẩm của sữa.

    Sữa non có công dụng như thế nào?

    Posted at  16:28  |  in  Sua non  |  Read More»

    Các chuyên gia sức khoẻ thường xuyên khuyến cáo các bà mẹ bằng mọi giá phải cho con bú ngay một giờ sau khi sinh, để tận dụng nguồn sữa non (Colostrum), chứa rất nhiều kháng thể
    Với trẻ sơ sinh, hệ thống miễn dịch chưa hoàn thiện, sức đề kháng còn yếu, nên rất dễ bị các vi trùng nguy hại bên ngoài tấn công.
    sua-non-nguon-thuc-an-quy-gia
    Trẻ sơ sinh dễ bị vi trùng xâm nhập
    Khi còn nằm trong bụng mẹ, bé được bảo vệ nhờ hệ thống miễn dịch tự nhiên của mẹ cũng như được hưởng những kháng thể khoẻ mạnh được truyền qua nhau thai. Khi bé chào đời, với việc cắt rốn, nguồn kháng thể quý giá từ mẹ truyền sang cũng bị cắt theo, khiến lượng kháng thể của trẻ giảm đột ngột trong khi bé chưa có khả năng tạo ra các kháng thể đủ để đề kháng lại với các yếu tố gây bệnh.
    Đây cũng là lúc bé bắt đầu chuyển sang môi trường hoàn toàn khác: nhiệt độ thay đổi, môi trường ô nhiễm, bụi bặm, và không loại trừ bé phải tiếp xúc với rất nhiều các vi khuẩn nguy hại. Theo thống kê, tiêu chảy và viêm phổi là hai bệnh nhiễm trùng phổ biến nhất và gây tử vong hàng đầu ở trẻ em trong năm đầu sau khi sinh.
    Trong năm đầu đời, sức đề kháng của trẻ là rất yếu. Đến tháng thứ 9, sức đề kháng của trẻ mới chỉ đạt được 60% so với người trưởng thành.
    Sữa mẹ luôn là nguồn dinh dưỡng tốt nhất vì nó có chứa các kháng thể, đặc biệt là sữa non Colostrum có nhiều trong 3 ngày đầu khi bé sinh.
    Vì sao chúng ta cần colostrum ?
    Thiên nhiên rất giỏi trong việc ngăn ngừa bệnh tật cho chúng ta. Trong khi chúng ta già đi thì việc chống chọi với cảm cúm, thời tiết lạnh rất khó, năng lực và tính năng động của chúng ta bị giảm sút, da mất tính đàn hồi, trọng lượng tăng và chúng ta mất sự săn chắc của cơ bắp. Lý do là vì khi trường thành cơ thể mất dần các nhân tố kháng thể tự nhiên và tăng trưởng.
    Trong gần 20 năm trở lại đây rất nhiều nghiên cứu đã chúng minh rằng colostrum cần thiết cho mọi người chứ không riêng gì trẻ sơ sinh. Colostrum có tính năng kháng oxy hóa, kháng viêm, là nguồn vitamin, khoáng chất, enzym và acid amin lớn. Colostrum sữa bò giúp cơ thể loại trừ các tác nhân xâm hại, tái tạo lại hệ miễn nhiễm, tăng cường mức độ lành bệnh của tất cả các mô, tăng khối xương và cơ bắp và hoàn thiện quá trình lão hóa.
    Colostrum giúp bé tăng sức đề kháng
    Colostrum là một loại sữa non hay còn được gọi là thức ăn đầu tiên của sự sống. Đó là một dạng vật chất có màu vàng, đặc, xuất hiện vào cuối thời kỳ mang thai và lưu thông qua tuyến vú của người mẹ trong vòng 72 giờ đầu sau khi sinh con (Colostrums là tiết ra trong khoảng 48 giờ sau khi sinh con. Sau 48-72 giờ là sữa quá độ. Sau 72 giờ là sữa bình thường). Các nghiên cứu khoa học cho thấy Colostrum của sữa bò đặc biệt giống với Colostrum từ các bà mẹ và mỗi giọt Colostrum hứa hẹn sự sống mới nhờ thành phần có chứa:
    • Globulin miễn nhiễm có thể cung cấp cho cơ thể sự phòng thủ tối đa đề phòng và chữa lành các căn bệnh do vi-rút, vi khuẩn, nấm men, và các loại dị ứng gây ra. Colostrum chất lượng cao phải được đảm bảo chứa tối thiểu 18% globulin miễn nhiễm.
    • Kháng thể trong Colostrum được chứng minh là rất đặc biệt, có thể chống lại 19 loại mầm bệnh đặc biệt khác nhau như: E.colin, khuẩn salmonela - loại vi khuẩn làm cho thức ăn trở nên độc, candida, khuẩn liên cầu - loại vi khuẩn gây ra nhiễm trùng, khuẩn tụ cầu, v.v…
    • Gluco protein có chức năng bảo vệ các nhân tố miễn nhiễm và phát triển khỏi sự phá huỷ của các loại thức uống giúp tiêu hoá ở bao tử hoặc đường ruột.
    • Các nhân tố phát triển về miễn nhiễm giúp kích thích sự phát triển tự nhiên, và giúp tái sinh, thúc mau quá trình hoàn chỉnh của cơ, collagen, xương, sụn và mô thần kinh bị lão hoá hoặc bị thương.
    Mặc dù các cơ quan y tế không ngừng khuyên chúng ta nên nuôi con bằng sữa mẹ trong suốt 12 tháng đầu đời của bé thế nhưng thực tế cho thấy rất ít người mẹ có đủ điều kiện thực hiện việc này. Chúng ta quá bận bịu với những công việc xung quanh trong xã hội năng động như hiện nay nên hầu hết các bé được mẹ dứt sữa ở giai đoạn từ 6-8 tháng tuổi.
    Do nó có nhiều kháng thể và bạch cầu nên trẻ được bú sữa non sẽ tránh được dị ứng và một số căn bệnh nhiễm khuẩn. Các bạch cầu này có khả năng bảo vệ cơ thể chống lại các vi khuẩn đường ruột. Do vậy, nếu cho bé bú sớm sau khi sinh và bú đều đặn, trẻ sẽ không mắc các bệnh như sởi, ho gà, ít bị viêm đường hô hấp và tiêu chảy.
    Colostrum còn phòng ngừa được bệnh khô mắt, đồng thời giúp trẻ tăng trưởng và tăng cân nhanh.
    Việc bổ sung thêm các thành phần giúp tăng sức đề kháng cho trẻ đã luôn được các hãng sữa quan tâm. Tuy nhiên, lý tưởng nhất là thành phần đưa vào này có nguồn gốc tự nhiên để bảo đảm an toàn tuyệt đối cũng như hiệu quả của nó đem lại. Và tất nhiên, nếu được bổ sung ngay chính Colostrum sẽ là tốt nhất.
    Với thành phần quý giá kể trên, Colostrum không chỉ tốt cho trẻ sơ sinh mà còn tốt cho những bé trên 1 tuổi và với cơ thể trưởng thành. Sau giai đoạn dậy thì, sự tăng trưởng và việc sản xuất các yếu tố miễn dịch của cơ thể sẽ giảm từ từ. Sữa non là nguồn duy nhất chứa những yếu tố miễn dịch tự nhiên, kích thích sự tái tạo mô, đốt cháy mỡ trong cơ thể để tạo ra năng lượng và hạn chế quá trình lão hóa...
    Như vậy, có thể thấy rằng, Colostrum kết hợp trong mình các đặc tính của vắc-xin đa năng, kích thích tố sinh học và thực phẩm giàu dinh dưỡng và dễ hấp thụ nhất, rất cần thiết và có ích không chỉ đối với trẻ mà còn đối với người lớn.
    Thành phần của colostrum?
    Colostrum cung cấp những nhân tố kháng thể và tăng trưởng và sự kết hợp hoàn hảo của các vitamin và khoáng chất nhằm bảo đảm sức khỏe, năng lực và sự tăng trưởng cho bé. Người ta cho rằng sữa non thúc đẩy ít nhất là năm mươi cơ chế trong trẻ sơ sinh, kể cả phân chuyển tất cả những nhân tố miễn nhiễm và trí não tổng quát từ chính hệ miễn nhiễm của bà mẹ.
    Nghiên cứu y học đã chứng minh rằng các nhân tố kháng thể đặc biệt quan trọng và tăng trưởng cho con người có thể được cung cấp từ colostrum của sữa bò. Nó thật sự được dung nạp cho tất cả loài hữu nhũ, kể cả con người và còn có tính năng kháng thể cao hơn gấp 40 lần so với colostrum trong sữa mẹ. Thí dụ : colostrum sữa mẹ chỉ có 2% IgG (immunoglobuline G), loại kháng thể quan trọng trong cơ thể, so với 86% trong colostrum bò. Ngoài ra còn có glycoprotein đặc biệt cực kỳ hiệu quả để bảo vệ các nhân tố kháng thể và tăng trưởng khỏi sự phá hủy của enzym tiêu hóa từ người lớn. Ngoài ra colostrum còn chứa khoảng 6 nhân tố tăng trưởng, 20 nhân tố kháng thể…
    Sữa bò non, nguồn thực phẩm tự nhiên rất tốt
    Thật lạ khi nghe nói sữa bò non là loại thuốc loại thực phẩm rất tốt mà thiên nhiên ban tặng cho con người , chỉ có điều chúng ta chưa thật sự quan tâm và tận dụng nó. Trên thế giới, các chế phẩm sữa bò non đang là sản phẩm có tốc độ tăng trưởng doanh số nhanh nhất. Sữa bò non là gì vậy?
    Do không có đủ sữa non để dung, các nhà khoa học thấy rằng các yếu tố miễn dịch và tăng trưởng có trong sữa bò non của bò mẹ sau khi đẻ con gần như đồng nhất với sữa non của người và là nguồn thay thế hữu hiệu cho nhu cầu của con người. Ngoài những chất dinh dưỡng như đạm, béo, carbonhydrate, vitamine và các chất khoáng, sữa bò non còn chứa các yếu tố tăng trưởng và miễn dịch nhưng quan trọng hơn hết là những yếu tố chuyển dịch (transfer factor). Các yếu tố chuyển dịch này sẽ kích hoạt cho việc hình thành hệ thống miễn dịch ở trẻ sơ sinh. Còn đối với người trưởng thành được sử dụng sữa bò non thì hệ thống miễn dịch được cải thiện trở nên mạnh mẽ hơn.
    Ngày nay có rất nhiều chế phẩm của sữa bò non dạng bột được sản xuất dưới dạng viên nang (capsule), viên nén (table), dạng gel... Chúng không phải là thuốc để trị bệnh mà được xem như thực phẩm dùng để hỗ trợ dinh dưỡng và giúp cải thiện hệ miễn dịch của cơ thể. Loại thực phẩm “sữa bò non” này dễ sử dụng, không gây tác dụng phụ đối với cơ thể trừ những người có cơ địa dị ứng với sữa và các chế phẩm của sữa.

    Thứ Sáu, 14 tháng 2, 2014

    Tác dụng của Canxi đối với sức khỏe con người

    Calcium là một trong những khoáng chất phổ biến nhất và thông dụng nhất trong cơ thể con người. Khoảng 99% calcium trong cơ thể có thể tìm thấy trong xương và răng. Calcium không chỉ đóng vai trò thiết yếu cho việc phát triển xương, mà còn có vai trò quan trọng trong việc duy trì hoạt động của cơ bắp, thông máu, phát tín hiệu cho các tế bào thần kinh, và giúp tiết chế một số kích thích tố (hormones).

    Vai trò của calcium trong quá trình tiến hóa của con người trong suốt 35.000 năm qua đã được nghiên cứu từ lâu, xuất phát từ ý niệm “thực phẩm thời đồ Đá” (Paleolithic Diet). Theo các nghiên cứu nhân chủng học, vào thời đại đồ Đá con người sống bằng nghề săn bắn, hái lượm, và lượng calcium trong thực phẩm thời đó thường ở mức độ trên.

    2000 mg hàng ngày. Khoảng 12.000 năm về trước, con người có mật độ xương cao hơn thời nay khoảng 17%. Nhưng khi con người bắt đầu định cư, phát triển nông nghiệp, trồng cây, lượng calcium tiếp thụ giảm dần cho đến ngày nay. Theo nghiên cứu dịch tễ học, hiện nay ngay cả tại các nước Âu Mĩ, lượng calcium tiếp thụ hàng ngày chỉ trên dưới.

    500 mg. Còn tại các nước như Thái Lan và Việt Nam, lương calcium tiếp thụ trung bình hàng ngày chỉ 300 mg. Theo các nhà nhân chủng học, đó chính là lí do tại sao nhiều người ngày nay mắc chứng loãng xương.


    Davin France Calcium - Bổ sung Can xi, vitamin D3 cho cơ thể


    Loãng xương và gãy xương

    Loãng xương là một bệnh mà lực của xương bị suy yếu và cấu trúc của xương bịsuy đồi, dẫn đến tình trạng xương trở nên dòn, dễ bị gãy khi va chạm với một lực đối nghịch, như té chẳng hạn. Các xương quan trọng thường bị gãy là xương cột sống (vertebrae), xương đùi (hip), cổ xương đùi (femoral neck) và xương tay. Gãy xương sườn và khung xương chậu (pelvis) cũng thường hay thấy trong các bệnh nhnhân có tuổi, và cũng có thể xem là hệ quả của loãng xương. Trong nhiều trường hợp, xương bị gãy nhưng không có biểu hiện gì bề ngoài, và người mắc phải bệnh không hề hay biết. Vì thế, loãng xương còn được gọi là một "căn bệnh âm thầm" (silent disease). Một phần vì đặc tính "âm thầm" này, loãng xương do đó là một căn bệnh rất phổbiến trong cộng đồng, nhất là trong người già. Ở nước ta, một nghiên cứu dịch tễ học cho thấy khoảng 20% phụ nữ trên 60 tuổi có triệu chứng loãng xương. Một trong những

    nguyên nhân hàng đầu làm cho gãy xương là mật độ xương trong người quá thấp [3]. Mật độ xương (bone mineral density hay BMD) là lượng chất khoáng tính bằng gram trên mỗi cm vuông (g/cm2) của một xương. Xương thường được quan tâm nhiều nhất là xương cột sống (lumbar spine) và đặc biệt là xương đùi. Mật độxương đùi tăng giảm tùy theo độ tuổi. Trong giai đoạn thiếu niên, mật độ xương tăng rất nhanh và đạt mức độ cao nhất vào độ tuổi từ 20 đến 30. Sau độ tuổi này, mật độ xương bắt đầu suy giảm dần dần. Ở phụ nữ vào độ tuổi 60 mật độ xương chỉ bằng 50% so với mật độ đỉnh vào tuổi “xuân thì”. Chính vì thế mà gãy xương thường hay xảy ra ở các phụ nữ sau thời kì mãn kinh.

    Đàn ông cũng bị gãy xương, nhưng nguy cơ gãy xương ở đàn ông không cao nhưphụ nữ. Theo các nghiên cứu dịch tễ học trong người da trắng, cứ 2 phụ nữ sống đến tuổi 85 thì có 1 phụ nữ bị gãy xương, và cứ 3 đàn ông sống cùng độ tuổi thì có 1 người sẽ bịgãy xương. Các tần suất này tương đương với tần suất mang bệnh tim và ung thư. Thật vậy, nguy cơ bị gãy xương đùi trong phụ nữ tương đương với nguy cơ bị ung thư vú. Loãng xương là một căn bệnh phức tạp với nhiều nguyên nhân và yếu tố nguy cơ.

    Nguy cơ bị loãng xương một phần là do di truyền, và một phần là do các yếu tố môi trường sống (như ăn uống, vận động cơ thể) cũng như hormones. Tất cả các yếu tố này có liên quan đến lượng chất khoáng và chất lượng xương trong cơ thể con người. Calcium và loãng xương.

     Bổ sung calcium có hiệu quả làm giảm tình trạng mất xương ở các phụ nữ sau thời kì mãn kinh. Một nghiên cứu lâm sàng trên các phụ nữ đã mãn kinh ít nhất là 6 năm và họ được cho dùng 500 mg calcium hàng ngày suốt 2 năm cho thấy calcium có khảnăng làm giảm hay ngưng tỉ lệ mất xương tại cột sống, đùi và xương tay. Một nghiên cứu khác theo dõi các phụ nữ với sức khỏe bình thường trong vòng 3 năm cũng cho thấy bổ sung calcium với liêu lượng 1000 mg hàng ngày có hiệu quả làm giảm tình trạng mất xương đùi và làm ngưng mất xương cột sống  Khá nhiều nghiên cứu còn cho thấy bổ sung calcium có hiệu quả làm giảm nguy cơ gãy xương ở các phụ nữ sau thời kì mãn kinh. Một nghiên cứu lâm sàng trên đàn ông và phụ nữ tuổi 65 trở lên kết luận rằng bổ sung calcium 500 mg hàng ngày và 700 IU vitamin D trong vòng 3 năm có hiệu quả làm giảm nguy cơ gãy xương đến 46% (tỉ sốnguy cơ: 0.54; khoảng tin cậy 95%: 0.12–0.77). Một nghiên cứu lâm sàng gần đây cũng ghi nhận rằng trong các phụ nữ cao tuổi, bổ sung calcium với liều lượng 1200 mg hàng ngày và 800 IU vitamin D trong vòng 18 tháng có hiệu quả làm giảm nguy cơ gãy xương đùi khoảng 76% (tỉ số nguy cơ: 0.26; khoảng tin cậy 95%: 0.03–0.44) và giảm nguy cơ gãy các xương ngoài xương cột sống.

    khoảng 75% (tỉ số nguy cơ: 0.25; khoảng tin cậy 95%: 0.09–0.38) Một nghiên cứu lâm sàng khác trên các phụ nữ sau thời kì mãn kinh, thiếu calcium trong người, và từng bị gãy xương cột sống, sau khi cho bổ sung calcium, các nhà nghiên cứu ghi nhận nguy cơ gãy xương trong các phụ nữ này giảm đến 77% (tỉ sốnguy cơ: 0.23), nhưng vì số lượng đối tượng còn ít cho nên chưa có ý nghĩa thống kê  Trong một phân tích tổng hợp mới công bố gần đây, bổ sung calcium cho phụ nữsau thời kì mãn kinh có hiệu quả giảm nguy cơ gãy xương cột sống khoảng 23% . Bổ
    sung calcium còn có thể làm giảm nguy cơ gãy xương tay, xương đùi, xương chậu, v.v… và mức độ hiệu nghiệm tương đương với thuốc risedronate, calcitonin, hay vitamin D.
    Hiệu quả của bổ sung calcium đã được nghiên cứu và kết quả cho thấy có thể tăng mật độ xương. Khi dùng calcium với vitamin D hay các thuốc bisphosphonates, ảnh hưởng tích cực của calcium trong việc tăng mật độ xương càng rõ ràng hơn.

    Nhu cầu calcium trong từng độ tuổi

    Trong thời gian niên thiếu và trưởng thành, khung xương của cơ thể tăng trưởng nhanh chóng, và calcium rất cần trong giai đoạn này để đáp ứng cho nhu cầu tăng trưởng của bộ xương. Cần nói thêm rằng mật độ xương đạt mức độ tối đa trong độ tuổi từ 20 đến 30, do đó tích tụ calcium trong giai đoạn này là một biện pháp phòng chống loãng
    xương về sau rất hữu hiệu 

    Phụ nữ mang thai và trong thời kì tiết sữa (lactation) rất cần calcium. Trong thời kì mang thai, nhất là vào tháng thứ 6 trở đi, sự cần thiết calcium càng cao để đáp ứng nhu cầu hình thành bộ xương cho thai nhi. Trong thời kì tiết sữa, phụ nữ cần bổ sung calcium để duy trì và sản xuất lượng sữa cần thiết cho con. Trong thời gian mang thai và tiết sữa, phụ nữ thường bị mất khoảng 2 đến 5% mật độ xương trong người, nhưng sau đó lượng xương mất này sẽ được phục hồi . Có nhiều phụ nữ ở các nước đang phát triển có triệu chứng loãng xương, thậm chí gãy nhân có tuổi, và cũng có thể xem là hệ quả của loãng xương. Trong nhiều trường hợp, xương bị gãy nhưng không có biểu hiện gì bề ngoài, và người mắc phải bệnh không hề hay biết. Vì thế, loãng xương còn được gọi là một "căn bệnh âm thầm" (silent disease).

    Một phần vì đặc tính "âm thầm" này, loãng xương do đó là một căn bệnh rất phổ biến trong cộng đồng, nhất là trong người già. Ở nước ta, một nghiên cứu dịch tễ học cho thấy khoảng 20% phụ nữ trên 60 tuổi có triệu chứng loãng xương
    Một trong những nguyên nhân hàng đầu làm cho gãy xương là mật độ xương trong người quá thấp. Mật độ xương (bone mineral density hay BMD) là lượng chất khoáng tính bằng gram trên mỗi cm vuông (g/cm2) của một xương. Xương thường được
    quan tâm nhiều nhất là xương cột sống (lumbar spine) và đặc biệt là xương đùi. Mật độxương đùi tăng giảm tùy theo độ tuổi. Trong giai đoạn thiếu niên, mật độ xương tăng rất nhanh và đạt mức độ cao nhất vào độ tuổi từ 20 đến 30. Sau độ tuổi này, mật độ xương bắt đầu suy giảm dần dần. Ở phụ nữ vào độ tuổi 60 mật độ xương chỉ bằng 50% so với mật độ đỉnh vào tuổi “xuân thì”. Chính vì thế mà gãy xương thường hay xảy ra ở các phụnữ sau thời kì mãn kinh. Đàn ông cũng bị gãy xương, nhưng nguy cơ gãy xương ở đàn ông không cao như phụ nữ. Theo các nghiên cứu dịch tễ học trong người da trắng, cứ 2 phụ nữ sống đến tuổi 85 thì có 1 phụ nữ bị gãy xương, và cứ 3 đàn ông sống cùng độ tuổi thì có 1 người sẽ bịgãy xương. Các tần suất này tương đương với tần suất mang bệnh tim và ung thư. Thật vậy, nguy cơ bị gãy xương đùi trong phụ nữ tương đương với nguy cơ bị ung thư vú.
    Loãng xương là một căn bệnh phức tạp với nhiều nguyên nhân và yếu tố nguy cơ. Nguy cơ bị loãng xương một phần là do di truyền, và một phần là do các yếu tố môi trường sống (như ăn uống, vận động cơ thể) cũng như hormones. Tất cả các yếu tố này có liên quan đến lượng chất khoáng và chất lượng xương trong cơ thể con người.

    Calcium và loãng xương


     Bổ sung calcium có hiệu quả làm giảm tình trạng mất xương ở các phụ nữ sau thời kì mãn kinh. Một nghiên cứu lâm sàng trên các phụ nữ đã mãn kinh ít nhất là 6 năm và họ được cho dùng 500 mg calcium hàng ngày suốt 2 năm cho thấy calcium có khảnăng làm giảm hay ngưng tỉ lệ mất xương tại cột sống, đùi và xương tay. Một nghiên cứu khác theo dõi các phụ nữ với sức khỏe bình thường trong vòng 3 năm cũng cho thấy bổ sung calcium với liêu lượng 1000 mg hàng ngày có hiệu quả làm giảm tình trạng mất xương đùi và làm ngưng mất xương cột sống. Khá nhiều nghiên cứu còn cho thấy bổ sung calcium có hiệu quả làm giảm nguy cơ gãy xương ở các phụ nữ sau thời kì mãn kinh. Một nghiên cứu lâm sàng trên đàn ông và phụ nữ tuổi 65 trở lên kết luận rằng bổ sung calcium 500 mg hàng ngày và 700 IU vitamin D trong vòng 3 năm có hiệu quả làm giảm nguy cơ gãy xương đến 46% (tỉ sốnguy cơ: 0.54; khoảng tin cậy 95%: 0.12–0.77).

    Một nghiên cứu lâm sàng gần đây cũng ghi nhận rằng trong các phụ nữ cao tuổi, bổ sung calcium với liều lượng 1200 mg hàng ngày và 800 IU vitamin D trong vòng 18 tháng có hiệu quả làm giảm nguy cơ gãy xương đùi khoảng 76% (tỉ số nguy cơ: 0.26; khoảng tin cậy 95%: 0.03–0.44) và giảm nguy cơ gãy các xương ngoài xương cột sống
    khoảng 75% (tỉ số nguy cơ: 0.25; khoảng tin cậy 95%: 0.09–0.38).
    Một nghiên cứu lâm sàng khác trên các phụ nữ sau thời kì mãn kinh, thiếu calcium trong người, và từng bị gãy xương cột sống, sau khi cho bổ sung calcium, các nhà nghiên cứu ghi nhận nguy cơ gãy xương trong các phụ nữ này giảm đến 77% (tỉ sốnguy cơ: 0.23), nhưng vì số lượng đối tượng còn ít cho nên chưa có ý nghĩa thống kê. Trong một phân tích tổng hợp mới công bố gần đây, bổ sung calcium cho phụ nữ sau thời kì mãn kinh có hiệu quả giảm nguy cơ gãy xương cột sống khoảng 23% . Bổ sung calcium còn có thể làm giảm nguy cơ gãy xương tay, xương đùi, xương chậu, v.v…
    và mức độ hiệu nghiệm tương đương với thuốc risedronate, calcitonin, hay vitamin D. Hiệu quả của bổ sung calcium đã được nghiên cứu và kết quả cho thấy có thể tăng mật độxương. Khi dùng calcium với vitamin D hay các thuốc bisphosphonates, ảnh hưởng tích cực của calcium trong việc tăng mật độ xương càng rõ ràng hơn.
    Nhu cầu calcium trong từng độ tuổi

    Trong thời gian niên thiếu và trưởng thành, khung xương của cơ thể tăng trưởng nhanh chóng, và calcium rất cần trong giai đoạn này để đáp ứng cho nhu cầu tăng trưởng của bộ xương. Cần nói thêm rằng mật độ xương đạt mức độ tối đa trong độ tuổi từ 20 đến 30, do đó tích tụ calcium trong giai đoạn này là một biện pháp phòng chống loãng xương về sau rất hữu hiệu.

    Phụ nữ mang thai và trong thời kì tiết sữa (lactation) rất cần calcium. Trong thời kì mang thai, nhất là vào tháng thứ 6 trở đi, sự cần thiết calcium càng cao để đáp ứng nhu cầu hình thành bộ xương cho thai nhi. Trong thời kì tiết sữa, phụ nữ cần bổ sung calcium để duy trì và sản xuất lượng sữa cần thiết cho con. Trong thời gian mang thai và tiết sữa, phụ nữ thường bị mất khoảng 2 đến 5% mật độ xương trong người, nhưng sau đó lượng xương mất này sẽ được phục hồi [. Có nhiều phụ nữ ở các nước đang phát triển có triệu chứng loãng xương, thậm chí gãy xương, trong thời kì mang thai và tiết sữa vì mất xương. Do đó, duy trì lượng calcium cần thiết trong thời kì này rất quan trọng để chống lại nguy cơ mất xương và gãy xương .

    Đối với các phụ nữ sau thời kì mãn kinh, khả năng hấp thụ calcium từ ruột và thận bị suy giảm vì mất kích thích tố. Tình trạng này dẫn đến một “cơ chế bồi thường”: cơ thểtiết ra hormone tuyến cận giáp (parathyroid hormone) để duy trì lượng calcium trong máu ở mức độ bình thường. Nhưng cơ chế này dẫn đến tình trạng mất xương. Do đó, để
    phòng chống tình trạng này, phụ nữ cần tiếp nhận khoảng 1000 mg calcium hàng ngày. Tính trung bình, 1000 mg tương đương với 3 – 4 li sữa tươi mỗi ngày.
    Đối với nhiều phụ nữ trong độ tuổi trung niên, lượng calcium tiếp thu qua nguồn thức ăn uống còn quá thấp (chỉ 30 đến 60%) so với lượng calcium cần thiết, có lẽ do tiết thực, không thích dùng thực phẩm động vật và tránh chất béo, hay trong một số người, dị ứng với sữa bò. Trong các trường hợp này, bổ sung calcium là một điều cần thiết để
    phòng chống mất xương trong những năm sau mãn kinh.
     Lượng calcium đề nghị nên tiếp nhận hàng ngày độ tuổi lượng calcium cần thiết hàng ngày:
    Trẻ em còn bú sữa mẹ Mới sinh đến 6 tháng 300 mg
    Trẻ em bú sữa bình Mới sinh đến 6 tháng 500 mg
    Trẻ em 1 – 3 tuổi 700 mg 4 – 7 tuổi 900 mg
    Nữ trong tuổi vị thành niên 8 – 11 tuổi 900 mg 12 – 15 tuổi 1000 mg 16 – 18 tuổi 800 mg
    Phụ nữ 19 – 54 tuổi 800 mg 54+ tuổi 1000 mg
    Phụ nữ có mang 1100 - 1200 mg
    Nam thiếu niên 8 – 11 tuổi 800 mg 12 – 15 tuổi 1200 mg 16 – 18 tuổi 1000 mg
    Đàn ông 19 – 64 tuổi 800 mg 64+ tuổi 800 mg
    Trích tài liệu: National Health and Medical Research Council. Recommended dietary intakes for use in Australia. 1991 Canberra, AGPS.
    Các tác dụng khác của calcium

    Ngoài tác dụng làm giảm nguy cơ loãng xương và gãy xương, calcium còn làm giảm cao huyết áp, và giảm chất béo trong cơ thể. Về mối liên hệ giữa calcium và chất béo, có hai cơ chế mà calcium có thể làm giảm chất béo trong cơ thể. Khi ăn uống có nhiều chất calcium, hệ quả là nó khống chế vitamin D , và qua đó làm giảm lượng calcium trong các tế bào béo (adipocytes). Theo nghiên cứu, tiếp thu 600 mg calcium hàng ngày trong vòng một năm có thể làm giảm cân đến 4,9 kg . Nhưng quá trình này cũng nảy sinh một nguy cơ khác, đó là nồng độ calcium cao có thể làm tăng nguy cơ bị ung thư tiền liệt tuyến, mặc dù có nghiên cứu cho thấy mối nguy cơ này không đáng kể .
    Một cơ chế khác là calcium làm suy giảm khả năng hấp thụ chất béo .
    Trong nhiều trường hợp, giảm chất béo là một “cứu cánh”, nhưng trong các trường hợp khác, nó cũng có nghĩa là giảm năng lượng cho cơ thể!
    Vai trò chất đệm.

     Đối với những người ăn chất đạm động vật nhiều, calcium đóng vai trò quan trọng trong việc cân đối hệ thống nội tiết. Cơ thể con người lúc nào cũng duy trì một lượng calcium trong máu gần như bất định, và một khi trong máu thiếu calcium, hệ thống nội tiết sẽ tìm cách “rút” calcium từ xương, và hệ quả của qui trình sinh học này là cho xương bị mất dần, dẫn đến loãng xương. Những người ăn chất đạm động vật nhiều có thể dẫn đến tình trạng nhiễm axít (acidosis), tức là tăng nhu cầu chất đệm cho máu, và điều này có nghĩa là calcium bị bài tiết ra nhiều hơn là lượng thu nhập.

    vào . Thành ra, tiếp thu calcium đầy đủ sẽ ngăn ngừa ảnh hưởng này xảy ra. Giới y tế đề nghị cứ ăn 50 g chất đạm, nên tiếp thu khoảng 1 g calcium.

    Calcium và cao huyết áp.

    Cao huyết áp là bệnh tương đối phổ biến trong người cao tuổi, nhất là ở Việt Nam. Nhiều nghiên cứu cho thấy calcium có thể làm giảm nguy cơ cao huyết áp. Người có lượng calcium đầy đủ có nguy cơ cao huyết áp thấp hơn người thiếu calcium .
    Hấp thụ calcium

    Một khía cạnh quan trọng của calcium là khả năng hấp thụ calcium của cơ thể còn tùy thuộc vào từng cá nhân. Nói chung chỉ khoảng 20 đến 30% calcium tiếp thu qua đường thức ăn được cơ thể hấp thụ và chuyển hóa, phần lớn còn lại tiết ra đường tiêu hóa. Mức độ hấp thụ calcium của cơ thể tùy thuộc vào lượng thức ăn chất sợi, và khả năng oxy hóa của ruột.

    Tóm lược và kết luận

    Tóm lại, calcium là một chất khoáng rất quan trọng không chỉ đối với xương mà còn là đối với việc điều hóa hệ thống nội tiết của cơ thể con người. Đối với xương, giới chuyên gia đều nhất trí rằng calcium (và vitamin D) là nền tảng cho việc điều trị và phòng chống loãng xương. Nhiều nghiên cứu qui mô trong vòng 20 năm qua cho thấy bổ sung calcium

    (1000–1200 mg hàng ngày) có hiệu quả làm giảm tình trạng mất xương sau thời kì mãn kinh và giảm nguy cơ gãy xương. Tất cả (hay gần như tất cả) các nghiên cứu lâm sàng thử nghiệm hiệu quả của các thuốc như bisphosphonates, raloxifene, PTH, calcitonin, v.v… đều phải sử dụng calcium và vitamin D. Calcium khi dùng chung với các thuốc.

    bisphosphonates và vitamin D (700–800 IU hàng ngày) trong người cao tuổi có thể nâng cao mức độ hiệu nghiệm của việc điều trị chống loãng xương. Vì thế, ở các nước Âu Mĩ, người ta khuyến khích dân chúng nên ăn uống sao cho cơ thể tiếp nhận từ 1000 đến 1500 mg hàng ngày (xem bảng chỉ dẫn trên). Nhưng trong thực tế, người Âu Mĩ chỉ tiếp nhận khoảng 700-800 mg hàng ngày. Ở nước ta, chưa có số liệu chính thức về tình trạng calcium, nhưng tình trạng suy dinh dưỡng và vi dinh dưỡng trong trẻ em có xu hướng trầm trọng . Do đó, cũng có thể suy luận rằng tình trạng thiếu calcium trong dân số ở nước ta cũng không khác gì, nếu không muốn nói là trầm trọng hơn, các nước Âu Mĩ.

    Trong tất cả các phương tiện điều trị loãng xương

    Alpha Lipid Life line là sản phẩm đơn giản nhất và rẻ tiền nhất. Trong điều kiện kinh tế còn ít nhiều khăn đối với phần đông dân số trong nước, tăng cường hay bổ sung calcium nên được xem là một biện pháp thực tế nhất để phòng chống loãng xương và gãy xương trên qui mô cả nước.

     

    SUANON.US: Tầm quan trọng của Canxi đối với sức khỏe con người

    Posted at  11:39  |  in  Tin moi  |  Read More»

    Tác dụng của Canxi đối với sức khỏe con người

    Calcium là một trong những khoáng chất phổ biến nhất và thông dụng nhất trong cơ thể con người. Khoảng 99% calcium trong cơ thể có thể tìm thấy trong xương và răng. Calcium không chỉ đóng vai trò thiết yếu cho việc phát triển xương, mà còn có vai trò quan trọng trong việc duy trì hoạt động của cơ bắp, thông máu, phát tín hiệu cho các tế bào thần kinh, và giúp tiết chế một số kích thích tố (hormones).

    Vai trò của calcium trong quá trình tiến hóa của con người trong suốt 35.000 năm qua đã được nghiên cứu từ lâu, xuất phát từ ý niệm “thực phẩm thời đồ Đá” (Paleolithic Diet). Theo các nghiên cứu nhân chủng học, vào thời đại đồ Đá con người sống bằng nghề săn bắn, hái lượm, và lượng calcium trong thực phẩm thời đó thường ở mức độ trên.

    2000 mg hàng ngày. Khoảng 12.000 năm về trước, con người có mật độ xương cao hơn thời nay khoảng 17%. Nhưng khi con người bắt đầu định cư, phát triển nông nghiệp, trồng cây, lượng calcium tiếp thụ giảm dần cho đến ngày nay. Theo nghiên cứu dịch tễ học, hiện nay ngay cả tại các nước Âu Mĩ, lượng calcium tiếp thụ hàng ngày chỉ trên dưới.

    500 mg. Còn tại các nước như Thái Lan và Việt Nam, lương calcium tiếp thụ trung bình hàng ngày chỉ 300 mg. Theo các nhà nhân chủng học, đó chính là lí do tại sao nhiều người ngày nay mắc chứng loãng xương.


    Davin France Calcium - Bổ sung Can xi, vitamin D3 cho cơ thể


    Loãng xương và gãy xương

    Loãng xương là một bệnh mà lực của xương bị suy yếu và cấu trúc của xương bịsuy đồi, dẫn đến tình trạng xương trở nên dòn, dễ bị gãy khi va chạm với một lực đối nghịch, như té chẳng hạn. Các xương quan trọng thường bị gãy là xương cột sống (vertebrae), xương đùi (hip), cổ xương đùi (femoral neck) và xương tay. Gãy xương sườn và khung xương chậu (pelvis) cũng thường hay thấy trong các bệnh nhnhân có tuổi, và cũng có thể xem là hệ quả của loãng xương. Trong nhiều trường hợp, xương bị gãy nhưng không có biểu hiện gì bề ngoài, và người mắc phải bệnh không hề hay biết. Vì thế, loãng xương còn được gọi là một "căn bệnh âm thầm" (silent disease). Một phần vì đặc tính "âm thầm" này, loãng xương do đó là một căn bệnh rất phổbiến trong cộng đồng, nhất là trong người già. Ở nước ta, một nghiên cứu dịch tễ học cho thấy khoảng 20% phụ nữ trên 60 tuổi có triệu chứng loãng xương. Một trong những

    nguyên nhân hàng đầu làm cho gãy xương là mật độ xương trong người quá thấp [3]. Mật độ xương (bone mineral density hay BMD) là lượng chất khoáng tính bằng gram trên mỗi cm vuông (g/cm2) của một xương. Xương thường được quan tâm nhiều nhất là xương cột sống (lumbar spine) và đặc biệt là xương đùi. Mật độxương đùi tăng giảm tùy theo độ tuổi. Trong giai đoạn thiếu niên, mật độ xương tăng rất nhanh và đạt mức độ cao nhất vào độ tuổi từ 20 đến 30. Sau độ tuổi này, mật độ xương bắt đầu suy giảm dần dần. Ở phụ nữ vào độ tuổi 60 mật độ xương chỉ bằng 50% so với mật độ đỉnh vào tuổi “xuân thì”. Chính vì thế mà gãy xương thường hay xảy ra ở các phụ nữ sau thời kì mãn kinh.

    Đàn ông cũng bị gãy xương, nhưng nguy cơ gãy xương ở đàn ông không cao nhưphụ nữ. Theo các nghiên cứu dịch tễ học trong người da trắng, cứ 2 phụ nữ sống đến tuổi 85 thì có 1 phụ nữ bị gãy xương, và cứ 3 đàn ông sống cùng độ tuổi thì có 1 người sẽ bịgãy xương. Các tần suất này tương đương với tần suất mang bệnh tim và ung thư. Thật vậy, nguy cơ bị gãy xương đùi trong phụ nữ tương đương với nguy cơ bị ung thư vú. Loãng xương là một căn bệnh phức tạp với nhiều nguyên nhân và yếu tố nguy cơ.

    Nguy cơ bị loãng xương một phần là do di truyền, và một phần là do các yếu tố môi trường sống (như ăn uống, vận động cơ thể) cũng như hormones. Tất cả các yếu tố này có liên quan đến lượng chất khoáng và chất lượng xương trong cơ thể con người. Calcium và loãng xương.

     Bổ sung calcium có hiệu quả làm giảm tình trạng mất xương ở các phụ nữ sau thời kì mãn kinh. Một nghiên cứu lâm sàng trên các phụ nữ đã mãn kinh ít nhất là 6 năm và họ được cho dùng 500 mg calcium hàng ngày suốt 2 năm cho thấy calcium có khảnăng làm giảm hay ngưng tỉ lệ mất xương tại cột sống, đùi và xương tay. Một nghiên cứu khác theo dõi các phụ nữ với sức khỏe bình thường trong vòng 3 năm cũng cho thấy bổ sung calcium với liêu lượng 1000 mg hàng ngày có hiệu quả làm giảm tình trạng mất xương đùi và làm ngưng mất xương cột sống  Khá nhiều nghiên cứu còn cho thấy bổ sung calcium có hiệu quả làm giảm nguy cơ gãy xương ở các phụ nữ sau thời kì mãn kinh. Một nghiên cứu lâm sàng trên đàn ông và phụ nữ tuổi 65 trở lên kết luận rằng bổ sung calcium 500 mg hàng ngày và 700 IU vitamin D trong vòng 3 năm có hiệu quả làm giảm nguy cơ gãy xương đến 46% (tỉ sốnguy cơ: 0.54; khoảng tin cậy 95%: 0.12–0.77). Một nghiên cứu lâm sàng gần đây cũng ghi nhận rằng trong các phụ nữ cao tuổi, bổ sung calcium với liều lượng 1200 mg hàng ngày và 800 IU vitamin D trong vòng 18 tháng có hiệu quả làm giảm nguy cơ gãy xương đùi khoảng 76% (tỉ số nguy cơ: 0.26; khoảng tin cậy 95%: 0.03–0.44) và giảm nguy cơ gãy các xương ngoài xương cột sống.

    khoảng 75% (tỉ số nguy cơ: 0.25; khoảng tin cậy 95%: 0.09–0.38) Một nghiên cứu lâm sàng khác trên các phụ nữ sau thời kì mãn kinh, thiếu calcium trong người, và từng bị gãy xương cột sống, sau khi cho bổ sung calcium, các nhà nghiên cứu ghi nhận nguy cơ gãy xương trong các phụ nữ này giảm đến 77% (tỉ sốnguy cơ: 0.23), nhưng vì số lượng đối tượng còn ít cho nên chưa có ý nghĩa thống kê  Trong một phân tích tổng hợp mới công bố gần đây, bổ sung calcium cho phụ nữsau thời kì mãn kinh có hiệu quả giảm nguy cơ gãy xương cột sống khoảng 23% . Bổ
    sung calcium còn có thể làm giảm nguy cơ gãy xương tay, xương đùi, xương chậu, v.v… và mức độ hiệu nghiệm tương đương với thuốc risedronate, calcitonin, hay vitamin D.
    Hiệu quả của bổ sung calcium đã được nghiên cứu và kết quả cho thấy có thể tăng mật độ xương. Khi dùng calcium với vitamin D hay các thuốc bisphosphonates, ảnh hưởng tích cực của calcium trong việc tăng mật độ xương càng rõ ràng hơn.

    Nhu cầu calcium trong từng độ tuổi

    Trong thời gian niên thiếu và trưởng thành, khung xương của cơ thể tăng trưởng nhanh chóng, và calcium rất cần trong giai đoạn này để đáp ứng cho nhu cầu tăng trưởng của bộ xương. Cần nói thêm rằng mật độ xương đạt mức độ tối đa trong độ tuổi từ 20 đến 30, do đó tích tụ calcium trong giai đoạn này là một biện pháp phòng chống loãng
    xương về sau rất hữu hiệu 

    Phụ nữ mang thai và trong thời kì tiết sữa (lactation) rất cần calcium. Trong thời kì mang thai, nhất là vào tháng thứ 6 trở đi, sự cần thiết calcium càng cao để đáp ứng nhu cầu hình thành bộ xương cho thai nhi. Trong thời kì tiết sữa, phụ nữ cần bổ sung calcium để duy trì và sản xuất lượng sữa cần thiết cho con. Trong thời gian mang thai và tiết sữa, phụ nữ thường bị mất khoảng 2 đến 5% mật độ xương trong người, nhưng sau đó lượng xương mất này sẽ được phục hồi . Có nhiều phụ nữ ở các nước đang phát triển có triệu chứng loãng xương, thậm chí gãy nhân có tuổi, và cũng có thể xem là hệ quả của loãng xương. Trong nhiều trường hợp, xương bị gãy nhưng không có biểu hiện gì bề ngoài, và người mắc phải bệnh không hề hay biết. Vì thế, loãng xương còn được gọi là một "căn bệnh âm thầm" (silent disease).

    Một phần vì đặc tính "âm thầm" này, loãng xương do đó là một căn bệnh rất phổ biến trong cộng đồng, nhất là trong người già. Ở nước ta, một nghiên cứu dịch tễ học cho thấy khoảng 20% phụ nữ trên 60 tuổi có triệu chứng loãng xương
    Một trong những nguyên nhân hàng đầu làm cho gãy xương là mật độ xương trong người quá thấp. Mật độ xương (bone mineral density hay BMD) là lượng chất khoáng tính bằng gram trên mỗi cm vuông (g/cm2) của một xương. Xương thường được
    quan tâm nhiều nhất là xương cột sống (lumbar spine) và đặc biệt là xương đùi. Mật độxương đùi tăng giảm tùy theo độ tuổi. Trong giai đoạn thiếu niên, mật độ xương tăng rất nhanh và đạt mức độ cao nhất vào độ tuổi từ 20 đến 30. Sau độ tuổi này, mật độ xương bắt đầu suy giảm dần dần. Ở phụ nữ vào độ tuổi 60 mật độ xương chỉ bằng 50% so với mật độ đỉnh vào tuổi “xuân thì”. Chính vì thế mà gãy xương thường hay xảy ra ở các phụnữ sau thời kì mãn kinh. Đàn ông cũng bị gãy xương, nhưng nguy cơ gãy xương ở đàn ông không cao như phụ nữ. Theo các nghiên cứu dịch tễ học trong người da trắng, cứ 2 phụ nữ sống đến tuổi 85 thì có 1 phụ nữ bị gãy xương, và cứ 3 đàn ông sống cùng độ tuổi thì có 1 người sẽ bịgãy xương. Các tần suất này tương đương với tần suất mang bệnh tim và ung thư. Thật vậy, nguy cơ bị gãy xương đùi trong phụ nữ tương đương với nguy cơ bị ung thư vú.
    Loãng xương là một căn bệnh phức tạp với nhiều nguyên nhân và yếu tố nguy cơ. Nguy cơ bị loãng xương một phần là do di truyền, và một phần là do các yếu tố môi trường sống (như ăn uống, vận động cơ thể) cũng như hormones. Tất cả các yếu tố này có liên quan đến lượng chất khoáng và chất lượng xương trong cơ thể con người.

    Calcium và loãng xương


     Bổ sung calcium có hiệu quả làm giảm tình trạng mất xương ở các phụ nữ sau thời kì mãn kinh. Một nghiên cứu lâm sàng trên các phụ nữ đã mãn kinh ít nhất là 6 năm và họ được cho dùng 500 mg calcium hàng ngày suốt 2 năm cho thấy calcium có khảnăng làm giảm hay ngưng tỉ lệ mất xương tại cột sống, đùi và xương tay. Một nghiên cứu khác theo dõi các phụ nữ với sức khỏe bình thường trong vòng 3 năm cũng cho thấy bổ sung calcium với liêu lượng 1000 mg hàng ngày có hiệu quả làm giảm tình trạng mất xương đùi và làm ngưng mất xương cột sống. Khá nhiều nghiên cứu còn cho thấy bổ sung calcium có hiệu quả làm giảm nguy cơ gãy xương ở các phụ nữ sau thời kì mãn kinh. Một nghiên cứu lâm sàng trên đàn ông và phụ nữ tuổi 65 trở lên kết luận rằng bổ sung calcium 500 mg hàng ngày và 700 IU vitamin D trong vòng 3 năm có hiệu quả làm giảm nguy cơ gãy xương đến 46% (tỉ sốnguy cơ: 0.54; khoảng tin cậy 95%: 0.12–0.77).

    Một nghiên cứu lâm sàng gần đây cũng ghi nhận rằng trong các phụ nữ cao tuổi, bổ sung calcium với liều lượng 1200 mg hàng ngày và 800 IU vitamin D trong vòng 18 tháng có hiệu quả làm giảm nguy cơ gãy xương đùi khoảng 76% (tỉ số nguy cơ: 0.26; khoảng tin cậy 95%: 0.03–0.44) và giảm nguy cơ gãy các xương ngoài xương cột sống
    khoảng 75% (tỉ số nguy cơ: 0.25; khoảng tin cậy 95%: 0.09–0.38).
    Một nghiên cứu lâm sàng khác trên các phụ nữ sau thời kì mãn kinh, thiếu calcium trong người, và từng bị gãy xương cột sống, sau khi cho bổ sung calcium, các nhà nghiên cứu ghi nhận nguy cơ gãy xương trong các phụ nữ này giảm đến 77% (tỉ sốnguy cơ: 0.23), nhưng vì số lượng đối tượng còn ít cho nên chưa có ý nghĩa thống kê. Trong một phân tích tổng hợp mới công bố gần đây, bổ sung calcium cho phụ nữ sau thời kì mãn kinh có hiệu quả giảm nguy cơ gãy xương cột sống khoảng 23% . Bổ sung calcium còn có thể làm giảm nguy cơ gãy xương tay, xương đùi, xương chậu, v.v…
    và mức độ hiệu nghiệm tương đương với thuốc risedronate, calcitonin, hay vitamin D. Hiệu quả của bổ sung calcium đã được nghiên cứu và kết quả cho thấy có thể tăng mật độxương. Khi dùng calcium với vitamin D hay các thuốc bisphosphonates, ảnh hưởng tích cực của calcium trong việc tăng mật độ xương càng rõ ràng hơn.
    Nhu cầu calcium trong từng độ tuổi

    Trong thời gian niên thiếu và trưởng thành, khung xương của cơ thể tăng trưởng nhanh chóng, và calcium rất cần trong giai đoạn này để đáp ứng cho nhu cầu tăng trưởng của bộ xương. Cần nói thêm rằng mật độ xương đạt mức độ tối đa trong độ tuổi từ 20 đến 30, do đó tích tụ calcium trong giai đoạn này là một biện pháp phòng chống loãng xương về sau rất hữu hiệu.

    Phụ nữ mang thai và trong thời kì tiết sữa (lactation) rất cần calcium. Trong thời kì mang thai, nhất là vào tháng thứ 6 trở đi, sự cần thiết calcium càng cao để đáp ứng nhu cầu hình thành bộ xương cho thai nhi. Trong thời kì tiết sữa, phụ nữ cần bổ sung calcium để duy trì và sản xuất lượng sữa cần thiết cho con. Trong thời gian mang thai và tiết sữa, phụ nữ thường bị mất khoảng 2 đến 5% mật độ xương trong người, nhưng sau đó lượng xương mất này sẽ được phục hồi [. Có nhiều phụ nữ ở các nước đang phát triển có triệu chứng loãng xương, thậm chí gãy xương, trong thời kì mang thai và tiết sữa vì mất xương. Do đó, duy trì lượng calcium cần thiết trong thời kì này rất quan trọng để chống lại nguy cơ mất xương và gãy xương .

    Đối với các phụ nữ sau thời kì mãn kinh, khả năng hấp thụ calcium từ ruột và thận bị suy giảm vì mất kích thích tố. Tình trạng này dẫn đến một “cơ chế bồi thường”: cơ thểtiết ra hormone tuyến cận giáp (parathyroid hormone) để duy trì lượng calcium trong máu ở mức độ bình thường. Nhưng cơ chế này dẫn đến tình trạng mất xương. Do đó, để
    phòng chống tình trạng này, phụ nữ cần tiếp nhận khoảng 1000 mg calcium hàng ngày. Tính trung bình, 1000 mg tương đương với 3 – 4 li sữa tươi mỗi ngày.
    Đối với nhiều phụ nữ trong độ tuổi trung niên, lượng calcium tiếp thu qua nguồn thức ăn uống còn quá thấp (chỉ 30 đến 60%) so với lượng calcium cần thiết, có lẽ do tiết thực, không thích dùng thực phẩm động vật và tránh chất béo, hay trong một số người, dị ứng với sữa bò. Trong các trường hợp này, bổ sung calcium là một điều cần thiết để
    phòng chống mất xương trong những năm sau mãn kinh.
     Lượng calcium đề nghị nên tiếp nhận hàng ngày độ tuổi lượng calcium cần thiết hàng ngày:
    Trẻ em còn bú sữa mẹ Mới sinh đến 6 tháng 300 mg
    Trẻ em bú sữa bình Mới sinh đến 6 tháng 500 mg
    Trẻ em 1 – 3 tuổi 700 mg 4 – 7 tuổi 900 mg
    Nữ trong tuổi vị thành niên 8 – 11 tuổi 900 mg 12 – 15 tuổi 1000 mg 16 – 18 tuổi 800 mg
    Phụ nữ 19 – 54 tuổi 800 mg 54+ tuổi 1000 mg
    Phụ nữ có mang 1100 - 1200 mg
    Nam thiếu niên 8 – 11 tuổi 800 mg 12 – 15 tuổi 1200 mg 16 – 18 tuổi 1000 mg
    Đàn ông 19 – 64 tuổi 800 mg 64+ tuổi 800 mg
    Trích tài liệu: National Health and Medical Research Council. Recommended dietary intakes for use in Australia. 1991 Canberra, AGPS.
    Các tác dụng khác của calcium

    Ngoài tác dụng làm giảm nguy cơ loãng xương và gãy xương, calcium còn làm giảm cao huyết áp, và giảm chất béo trong cơ thể. Về mối liên hệ giữa calcium và chất béo, có hai cơ chế mà calcium có thể làm giảm chất béo trong cơ thể. Khi ăn uống có nhiều chất calcium, hệ quả là nó khống chế vitamin D , và qua đó làm giảm lượng calcium trong các tế bào béo (adipocytes). Theo nghiên cứu, tiếp thu 600 mg calcium hàng ngày trong vòng một năm có thể làm giảm cân đến 4,9 kg . Nhưng quá trình này cũng nảy sinh một nguy cơ khác, đó là nồng độ calcium cao có thể làm tăng nguy cơ bị ung thư tiền liệt tuyến, mặc dù có nghiên cứu cho thấy mối nguy cơ này không đáng kể .
    Một cơ chế khác là calcium làm suy giảm khả năng hấp thụ chất béo .
    Trong nhiều trường hợp, giảm chất béo là một “cứu cánh”, nhưng trong các trường hợp khác, nó cũng có nghĩa là giảm năng lượng cho cơ thể!
    Vai trò chất đệm.

     Đối với những người ăn chất đạm động vật nhiều, calcium đóng vai trò quan trọng trong việc cân đối hệ thống nội tiết. Cơ thể con người lúc nào cũng duy trì một lượng calcium trong máu gần như bất định, và một khi trong máu thiếu calcium, hệ thống nội tiết sẽ tìm cách “rút” calcium từ xương, và hệ quả của qui trình sinh học này là cho xương bị mất dần, dẫn đến loãng xương. Những người ăn chất đạm động vật nhiều có thể dẫn đến tình trạng nhiễm axít (acidosis), tức là tăng nhu cầu chất đệm cho máu, và điều này có nghĩa là calcium bị bài tiết ra nhiều hơn là lượng thu nhập.

    vào . Thành ra, tiếp thu calcium đầy đủ sẽ ngăn ngừa ảnh hưởng này xảy ra. Giới y tế đề nghị cứ ăn 50 g chất đạm, nên tiếp thu khoảng 1 g calcium.

    Calcium và cao huyết áp.

    Cao huyết áp là bệnh tương đối phổ biến trong người cao tuổi, nhất là ở Việt Nam. Nhiều nghiên cứu cho thấy calcium có thể làm giảm nguy cơ cao huyết áp. Người có lượng calcium đầy đủ có nguy cơ cao huyết áp thấp hơn người thiếu calcium .
    Hấp thụ calcium

    Một khía cạnh quan trọng của calcium là khả năng hấp thụ calcium của cơ thể còn tùy thuộc vào từng cá nhân. Nói chung chỉ khoảng 20 đến 30% calcium tiếp thu qua đường thức ăn được cơ thể hấp thụ và chuyển hóa, phần lớn còn lại tiết ra đường tiêu hóa. Mức độ hấp thụ calcium của cơ thể tùy thuộc vào lượng thức ăn chất sợi, và khả năng oxy hóa của ruột.

    Tóm lược và kết luận

    Tóm lại, calcium là một chất khoáng rất quan trọng không chỉ đối với xương mà còn là đối với việc điều hóa hệ thống nội tiết của cơ thể con người. Đối với xương, giới chuyên gia đều nhất trí rằng calcium (và vitamin D) là nền tảng cho việc điều trị và phòng chống loãng xương. Nhiều nghiên cứu qui mô trong vòng 20 năm qua cho thấy bổ sung calcium

    (1000–1200 mg hàng ngày) có hiệu quả làm giảm tình trạng mất xương sau thời kì mãn kinh và giảm nguy cơ gãy xương. Tất cả (hay gần như tất cả) các nghiên cứu lâm sàng thử nghiệm hiệu quả của các thuốc như bisphosphonates, raloxifene, PTH, calcitonin, v.v… đều phải sử dụng calcium và vitamin D. Calcium khi dùng chung với các thuốc.

    bisphosphonates và vitamin D (700–800 IU hàng ngày) trong người cao tuổi có thể nâng cao mức độ hiệu nghiệm của việc điều trị chống loãng xương. Vì thế, ở các nước Âu Mĩ, người ta khuyến khích dân chúng nên ăn uống sao cho cơ thể tiếp nhận từ 1000 đến 1500 mg hàng ngày (xem bảng chỉ dẫn trên). Nhưng trong thực tế, người Âu Mĩ chỉ tiếp nhận khoảng 700-800 mg hàng ngày. Ở nước ta, chưa có số liệu chính thức về tình trạng calcium, nhưng tình trạng suy dinh dưỡng và vi dinh dưỡng trong trẻ em có xu hướng trầm trọng . Do đó, cũng có thể suy luận rằng tình trạng thiếu calcium trong dân số ở nước ta cũng không khác gì, nếu không muốn nói là trầm trọng hơn, các nước Âu Mĩ.

    Trong tất cả các phương tiện điều trị loãng xương

    Alpha Lipid Life line là sản phẩm đơn giản nhất và rẻ tiền nhất. Trong điều kiện kinh tế còn ít nhiều khăn đối với phần đông dân số trong nước, tăng cường hay bổ sung calcium nên được xem là một biện pháp thực tế nhất để phòng chống loãng xương và gãy xương trên qui mô cả nước.

     

    THỐNG KÊ

    LIÊN KẾT

    Hỗ trợ trực tuyến 24/24 : 0942.239.778 | 09.3637.1718 |
    Nội dung thuộc về Yeusuanon.com
    Copyright © 2014. Suanon.uS - All Rights Reserved
    Quản Lý Yeusuanon.com
    Liên Hệ: Mr: Hoàng Phúc
    Phone: 0942.239.778 Hoặc 09.3637.1718
    back to top